Tôi từng mong ước đi học Đại học Nông Nghiệp để đem hiểu biết về lúa mà làm cho đồng ruộng quê mình ngày càng trù phú, nhưng tôi đã không thực hiện được giấc mơ của mình. Tôi theo nghề sư phạm để mỗi lần đứng hát bài hát “Hát về cây lúa hôm nay” lại thấy lòng mình day dứt, xốn xang.
NĂM
NAY LÚA LẠI ĐƯỢC MÙA
LÊ
PHƯỢNG
(xã Ea Knuếc, tỉnh Daklak)
“Niêm
Phò nhiều tiền, Phước Yên nhiều lúa”. Đó là câu mà người dân ven sông Bồ thường
nhắc khi nói đến vùng đất quê tôi, ngay cả tên huyện nghe cũng phảng phất hương
đất, hương lúa: Huyện Hương Điền
Làng
tôi là làng Phò Nam, nằm bên sông Bồ, dòng sông quanh co uốn khúc , nước xanh
trong, rọi áng mây trời. Không biết sông bắt nguồn từ đâu, chỉ biết nó chảy qua
nhiều làng xã rồi ngang qua làng tôi. Đoạn qua làng tôi, người trong làng gọi
là rào Phò Nam. Rào Phò Nam là khúc sông trong mát, hiền lành, hai bên bờ tre
phủ. Ở đó còn có những cây si, cây cừa, cây sung, ngái dại ngã mình soi bóng xuống
dòng sông. Con sông ngày đêm chuyên chở phù sa bồì đắp cho những cánh đồng
lua hai bên bờ sông, tạo nên một vùng trù phú mênh mông
Sau
làng là cánh đồng lúa. Cánh đồng chạy bạt ngàn từ trên, Bác Vọng, Do Lâm hay xa
hơn nữa cho đến Bàu, Niêm Phò và chạy tít tận chân trời. Mùa lúa chín, cả
cánh đồng vàng rực, những con chim bay về chao lượn hay sà xuống nhặt hạt sót,
hạt rơi. Phía trên là một khoảng trời xanh, thoáng đãng, có đám mây nào đó dường
như không muốn trôi, gió thổi nhẹ đám mây như dạt ra thành sợi mỏng, vướng
víu,giăng mắc rồi tan dần như có, như không. Đứng trước những cánh đồng nầy
tôi thấy mình nhỏ bé, thật nhỏ bé và tôi như muốn nằm xuống rệ cỏ, nhắm mắt lại
và tan trong giấc mơ yên bình
Vào
mùa gặt, những người thợ gặt với liềm hay vằng (cái hái) thoăn thoắt gặt lúa
trên đồng, lúa được bó lại từng bó và được xóc vào đòn xóc rồi gánh về, không
phải bằng xe bò, xe trâu, xe ba gát hay máy kéo như sau nầy. Hình ảnh những
người nông dân lực lưỡng hay những O thôn nữ với gánh thóc trĩu nặng thoăn thoắt
chạy trên đường làng trong mùa gặt như in đậm mãi trong tâm hồn tôi.
Tôi
yêu mùa gặt, mùa gặt không phải chỉ là mùa của no đủ mà còn là mùa của vui
vầy. Những ngày ấy mẹ tôi thường đi chợ xa, mua về nhiều thức ăn để nấu nướng
cho thợ gặt (là những chú, những bác trong làng). Bữa cơm thật đông vui,
tiếng cười nói râm ran, bát nước chè xanh bưng mời nhau uống, tình cảm xóm làng
sao ấm áp thân thương.
Mùa
gặt lúa phơi trên sân, trên đường làng, tơ rơm vương đầy ngõ xóm, nắng dập dờn
trên lá và trẻ con nô đùa quanh sân. Làng xóm yên bình và no đủ trong mùa
lúa mới
Tối tối, sau làng có tiếng trâu đạp lúa, tiếng hò ru con, tiếng xe đạp nước, tiếng
côn trùng hòa trong tiếng chuông đêm lơ lửng tạo một khúc hòa âm lắng đọng mãi
trong tâm hồn.
Nhưng
không phải lúc nào làm ruộng cũng găp thuận lợi, miền Trung là nơi
nhiều mưa lũ, chỉ cần ba bốn ngày mưa to lên tục, nước sông dâng cao là
lúa chìm trong nước. Tôi từng thấy mẹ tôi và những người dân quê tôi đứng
giữa mênh mông mưa gió, vớt lúa sắp chín, nước mưa hòa cùng nước mắt mà
đứt ruột.
Cũng
vì vậy, tôi từng mong ước đi học Đại học Nông Nghiệp để đem hiểu biết về lúa mà
làm cho đồng ruộng quê mình ngày càng trù phú, nhưng tôi đã không thực hiện được
giấc mơ của mình. Tôi theo nghề sư phạm để mỗi lần đứng hát bài hát “Hát về
cây lúa hôm nay” lại thấy lòng mình day dứt, xốn xang.
Rồi
tôi vào Daklak dạy học, đối diện trường là hai hồ nước tự nhiên rất lớn, nước
được tải nước về cho cả thành phố Buôn Ma Thuột. Sau hồ là cánh đồng lúa của
người đồng bào, lúa trải dài xanh mát. Có nhiều lúc đứng trên tầng hai của
trường nhìn ra xa, tôi như thấy bóng dáng của quê hương mình. Thì ra, đất nước
mình đi đâu, về đâu, dù miền ngược hay miền xuôi đều gắn với lúa gạo. Lúa gạo,
hạt ngọc của trời nuôi lớn bao thế hệ con người Việt Nam.
Có
nhiều lần, tôi theo chị gái cùng trường ra sau cánh đồng, nói là theo chị đi
kiếm rau muống nhưng thực chất, tôi muốn lội xuống những đám ruộng, dầm chân
trong bùn để thấy lại cái mát lành, thấy lại mùi bùn, mùi lúa của quê hương
thân thuộc
Tôi
từng trở về làng, tôi ghé thăm nhà mệ Cháu, người nông dân một đời bám ruộng vườn,
nhìn những lá sắn vàng dưới gốc và nghe mệ nhắc lại chuyên của những năm
tháng nào. Hồi ấy các làng dọc theo sông Bồ đều chịu nhiều bom đạn
nhưng người dân vẫn bám đất giữ làng, họ dễ gì rời bỏ mảnh đất,
cánh đồng nuôi sống họ. Họ âm thần bám đất, bám ruộng, làm ra hạt gạo nuôi sống
mình và tiếp tế cho người kháng chiến.
Nhắc
đến những người nông dân trong làng tôi cũng nhớ mẹ tôi, mẹ tôi là người
nông dân thực thụ, quanh năm đầu tắt mặt tối với ruộng đồng. Mẹ tôi ra đồng
từ khi mờ sương cho đến lúc bóng ngả chiều tà và trở về với cái nón cời, áo quần
dính đầy vệt bùn.
Từng
thời điểm làm lúa của mẹ như hằng in trong tâm trí tôi: Cuối đông
là mùa đông đốt đồng cày ải, vệt khói mờ hòa quyện trong bóng chiều se se lạnh.
Những ngày này, mẹ tôi cũng bắt đầu ủ lúa cho lên mầm rồi đem ra rải trên một vạt
ruộng bùn đã ngấu, cày bừa mịn mượt. Khi hạt lúa đã lên thành cây mạ cứng cáp,
cũng là bắt đầu mùa cấy, mẹ tôi lại cùng mấy O, mấy thím nhổ mạ bó lại
từng lọn nhỏ, mạ được đặt vào những chiếc sảo nhỏ mà quê tôi gọi là ki để
gánh ra đồng. Từng bó mạ được thả xuống ruộng, các O, các thím lại dàng hành
ngang mà cấy, tôi hầu như không thấy dây can hàng để cấy lúa, họ cứ đều chân và ướm chừng khoảng
cách mà cấy. Lúa thẳng hàng, đều tắp và chỉ nghe họ dặn nhau nhớ dặm lúa cho chặt.
Nhiều
lần mang nước ra ruộng cho mẹ và các O, các thím, tôi thấy họ cứ bước lùi, tôi
hỏi mẹ vì sao không đi tới? Mẹ tôi nói: Đi lùi để tránh dẫm vào lúa, đi lùi lại
thấy đồng lúa mỗi lúc mỗi mở ra trước mắt ta, đánh dấu thành quả của ta, con
không thấy sao? Vả lại, cuộc sống “lùi một bước bể rộng trời cao” con ạ! Đó
cũng là bài học đầu tiên tôi học được từ việc cấy lúa của mẹ tôi, học từ một
người nông dân quanh năm chân lấm, tay bùn
Hạt
gạo quê tôi đã nuôi sống chị em tôi. Ngày còn đỏ hỏn,
chúng tôi sống được là nhờ dòng sữa mẹ và chén nước cơm được bà chắt ra từ nồi
cơm sôi lục bục, khi mẹ đang còn ngoài đồng. Có thứ dinh dưỡng nào hiền, quý và
thanh sạch đến vậy. Lớn một chút sách vở, áo quần cũng từ lúa gạo. Hạt gạo
thương người mà bù chì quanh năm.
Tôi lại trở về quê, lần này cũng vào mùa hạ, mùa tôi được
nghỉ hè, cũng là mùa gặt. Làng quê tôi đã ít nhiều đổi
thay, nhà ngói tường gạch thay cho nhà tranh vách đất thưở nào, đường
đã mở rộng và láng xi măng, không còn đường đất như xưa nhưng sau
làng, cánh đồng lúa vẫn như cũ. Cánh đồng đã nuôi sống bao thế hệ con người
của quê hương tôi vẫn được giữ gìn
Tôi ra thắp hương cho cha mẹ tôi ở cồn mồ, gần cánh
đồng. Đây cũng là nơi an nghỉ của những người dân quê tôi, những người một đời
gắn bó với đất, với lúa không rời cho đến lúc ra đi
Trong ánh nắng chiều đang buông xuống, sương phủ mờ mờ trên cánh đồng, vài cánh cò, cánh vạc còn lui hui lượm mót. Tôi như thấy bóng cha mẹ tôi thấp thoáng trên đồng, mẹ đang ngắt cọng lúa vàng đưa vào miệng nhấm nhấm, sữa lúa dính trên hái khóe miệng, mẹ vừa cười vừa nói với tôi: Năm nay, lúa lại được mùa!


