Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”
THƯƠNG NHỚ LÚA MÙA
NGUYỄN THỤY NHÃ (Hội văn học nghệ thuật An Giang)
Có lần nghe má dạy
đứa cháu đang bập bẹ tập hát: “Lạy trời mưa xuống/ lấy nước tôi uống/ lấy ruộng
tôi cày/ lấy đầy bát cơm…”. Mấy câu đồng dao hầu như đứa con nít nào cũng thuộc
lòng từ nhỏ, được sự dạy dỗ của người
xưa, phải biết quý trọng hột gạo nên mỗi bữa cơm ông bà thường nhắc nhở con cháu, trước hết là
lòng biết ơn, từng giọt nước của trời, từng thửa ruộng, chén cơm, khi ăn phải
cho hết cơm trong chén, không để hột cơm
rơi rớt vung vãi…Vì hột gạo là hột ngọc của trời, xem thường là mang tội. Qua
đó cũng dễ nhận biết đời sống của tổ tiên ông cha ta đã gắn liền với nền nông
nghiệp lúa nước mà mưa là yếu tố quan trọng để phát triển cây trồng.
Thỉnh thoảng má tôi ngồi nhắc chuyện thời tay lắm chân
bùn, chậm rãi bà nói: -Hồi đó, từ cái ăn cái mặc, chuyện học hành của con cái đến
chuyện cưới gã, lợp lại mái nhà… Tất cả trông chờ vào vụ lúa! Nhắc lại thấy thèm bữa cơm nấu bằng gạo lúa
mùa chắc giờ không còn nữa đâu!
Nghe má nói, biết bao kỷ niệm ùa về của năm tháng tuổi
thơ. Khi trời bắt đầu se lạnh. Sự chuyển mình của vạn vật chung quanh là biết đất
trời sắp vào xuân. Đó là lúc gian nhà sau của ba má tôi lại rộn ràng những bao
lúa được trâu cộ về trước sân nhà chờ đem đổ bồ để chuẩn bị “ăn tết”.
Dù chỉ là những
hạt thóc nhỏ bé nhưng dường như nó có sức mạnh để gồng gánh các thứ cho sự tồn
tại trong mái nhà tôi qua những tháng năm… Tôi vẫn nhớ, cứ gặt lúa xong là ngoại
dắt tôi vài buổi ra đồng để mót lúa. Nói là mót lúa cũng vừa là để ngoại vuốt
rơm đem về bó chổi quét bếp, quét nhà dùng cho cả năm. Tính ngoại cần kiệm trở
thành thói quen, ngoại nói mót những hạt lúa rơi vãi cũng nuôi thêm con gà, con
vịt đỡ hao hụt đến phần lúa dự trữ…
Tôi lẽo đẽo theo ngoại đi trên những thửa ruộng đất
khô nứt nẻ chỉ còn trơ gốc rạ. Ngoại để tôi ngồi chơi cạnh đống rơm cao hơn đầu
người phía không có nắng, rồi chỉ tôi cách bó rơm để làm thành con búp bê, hay
những cây chổi nhỏ xíu. Còn ngoại thì trải tấm đệm nhỏ, ôm từng bó rơm người ta
đã đập xong rồi dùng khúc tre già đập lại. Xế chiều, lúa mót được gom vào cái
thúng, ngoại đứng rê theo hướng gió thổi cho bay đi những hạt lúa lép, mạt rơm
vụn, mỗi buổi như vậy cũng được chừng một thúng giạ. Giờ chỉ còn hình bóng ngoại
gầy gò trong trí nhớ với bao thương nhớ đong đầy…
Hôm nay tôi đem
bọc gạo Tàu Hương 2kg có nhãn mác đăng ký đàng hoàng tên thương hiệu “ Tư Lúa
Mùa” về nhà để nhỏ em nấu cơm cho má tôi ăn mà không nói trước là gạo gì. Bữa
cơm hôm đó có cá trê, cá lóc đồng con roi roi bằng cườm tay, mớ kho tiêu, mớ nấu
canh với cải trời. Mâm cơm sực nức mùi gạo mới, mùi thơm của tô canh đồng nội gợi
lên nỗi nhớ tưởng chìm sâu trong ký ức… Má tôi buột miệng: Bữa nay ăn cơm ngon
ghê, thơm, dẻo ngọt, là gạo gì vậy con!? Lần sau nấu chắt cho má tô nước cơm
nghe mấy đứa!
Ôi trời, nghe má nhắc đến nước cơm chắt càng khơi dậy những
ký ức sâu lắng trong tôi. Như một thói quen của bất cứ gia
đình nào khi nấu cơm, chờ cơm sôi, nhìn nước trong nồi còn xăm xắp thì chắt nước
ra tô, dù không nhiều lắm, để chan cơm thay canh ăn với cá kho tiêu, nước mắm
khó quẹt thì cá thịt cũng quên đi! có khi tô nước cơm còn nóng hổi mấy đứa nhỏ
xin trước rồi pha thêm chút đường, nước cơm sền sệt ngọt ngọt, mùi thơm của gạo,
giống như được uống sữa…
Tôi hớn hở khoe: Má ơi! Đây là gạo Tàu Hương chính gốc
lúa mùa nhe má đã có mặt tại vùng Cù Là - Minh Lương mình luôn đó!
-Ủa giờ người ta còn trồng được lúa mùa sao con!?
Tôi lại suy nghĩ và cũng tự trả lời trong đầu về câu hỏi
của má mình, không phải người ta không còn trồng được lúa mùa nhưng nếu chỉ
trông cậy vào kiểu trồng mỗi năm một vụ như vậy thì hạn chế phát triển lương thực,
từ hàng trăm năm nay người nông dân nói chung ở đồng bằng sông Cửu Long đã quen
với cách trồng lúa nước truyền thống, nếu cứ duy trì theo cách cũ thì không thể
nào đảm bảo an ninh lương thực, quốc phòng, khi gặp thiên tai, dịch bệnh, chiến
tranh… Trong khi miền Nam được xem một trong những vựa lúa lớn cả nước thì cần
thay đổi cách trồng lúa độc canh để chuyển sang các giống lúa ngắn ngày thâm
canh là cần thiết để “Tích cốc phòng cơ” của một quốc gia, cũng như theo kịp những
tiến bộ khoa học để vươn mình. Tôi nghĩ bình thường ở góc độ người dân vậy
thôi!
Nói về cơ duyên để gặp lại kỹ sư Lê Quốc Việt sau gần
40 năm từ khi anh là sinh viên ngành Nông Nghiệp mới ra trường và công tác tại
UBND huyện Châu Thành (tỉnh Kiên Giang cũ) cũng là nơi “chôn nhau, cắt rốn” của
anh. Bẵng đi thời gian dài khi tôi trở về sống tại Rạch Giá, mới biết cái nông
trại Tư lúa Mùa cách tôi ở không xa lắm. Thấy báo chí viết về anh rần rần, các
bài phóng sự không ngớt lời khen tặng. Và cũng từ một mong muốn đơn giản của má
mình đã thôi thúc tôi tìm đến trang trại gặp lại anh sinh viên ngày nào. Ở cái
tuổi cũng đã lên chức ông bà, thời gian
phủ bạc lên mái đầu mỗi đứa, giờ gặp lại anh qua dáng vẻ một lão nông dân chính
gốc vẫn bám trụ với làng quê nơi anh sinh ra, cái nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn anh,
một người nặng nợ với từng hột lúa cội nguồn.
Trang trại của
anh nằm cặp Quốc lộ 61 cách chợ Minh Lương tầm 2 km. Vùng đất gieo cho anh cả bầu trời tuổi thơ
thương nhớ. Hơn 25.000 m2 là đất thừa hưởng của ông bà để lại, cũng xót lòng khi
phải bán đi vài công để sửa sang lại mảnh đất này nhằm thực hiện ước mơ là quyết
tâm hồi sinh lại giống lúa mùa đã dần dần mai một.
Anh kể như một sự trải lòng, từ lúc còn nhỏ, 7,8 tuổi
đã quen với ruộng đồng, biết dỡ cơm ra đồng
cho ba má, biết đuổi chim, nhổ cỏ lúa, tát đìa, đào hang hun khói bắt chuột, nhớ
từng món ăn cây nhà lá vườn khi nhà nghèo, chị của anh chịu thương chịu khó làm
những món bánh dân gian, nhớ dáng chị ngồi, hai tay quay đều theo cái cối đá,
còn anh ngồi múc từng muỗng gạo đã ngâm mềm trong nước bỏ sao cho khéo vào miệng
cối xay nhuyễn thành những dòng bột trắng mịn để chị làm ra nhiều thứ bánh thơm ngon cho các
em mình ăn vào những buổi trưa, rồi thì bánh bò, bánh khọt, bánh xèo, bánh canh
mặn ngọt đều từ gạo, cả cái thời con gái ở vùng quê còn lạ lẫm với son phấn, thương
chị mộc mạc, mỗi lần nấu cơm chị thường lấy nước vo gạo để rửa cho da mặt được
mịn màng…
Cảnh làng quê yên ả của những đêm trăng sáng vằng vặc cũng
dần thay đổi theo năm tháng để hòa chung với ánh đèn phố thị, riêng trong lòng
anh vẫn canh cánh một miền quê đậm đà nghĩa nặng tình sâu.
Giữa lúa giao thời 2 nền văn hóa truyền thống và hiện
đại của nghề trồng lúa, sự chuyển đổi về
các giống lúa mới đã thay đổi những tập quán trong canh tác tức sẽ kéo thay đổi
trong cách nghĩ cách làm…Tuy nhiên với anh là người dày dặn kinh nghiệm, sống
qua hai thời kỳ gắn mình với cây lúa việc nắm bắt khoa học kỹ thuật cũng không
làm khó anh ở dù môi trường nào.
Anh nói, đến khoảng thập niên 1990, cây lúa mùa ở quê
anh đã vắng bóng. Thương nhớ ký ức ruộng
đồng anh đã gắn bó nên ráng giữ cây lúa từng nuôi sống ông cha và một phần đời khôn lớn. Năm 2016, anh bắt đầu tìm tòi phục dựng
và làm sống lại lúa mùa trên chính mảnh
đất cha ông của mình, trên quê hương mình.
Câu nói tâm tình như dốc hết gan ruột anh ra khiến ai
nghe cũng thấy bồi hồi! Không tìm cho mình hướng đi để làm giàu cho bản thân, cho
gia đình như bao người khác, không tạo cho mình những hào nhoáng bên ngoài bằng
hư danh, anh đeo đuổi mục đích lý tưởng của riêng mình. Ở anh, tôi thấy toát ra
một tinh, một thần khí chất đầy nghị lực của một ông lão Nam Bộ, chân chất cần
mẫn với công việc nghiên cứu của mình qua từng ngày. Cuộc sống bình dị cùng ấm
trà, bữa cơm yên ấm bên người vợ làm hậu phương vững chắc cho mình.
Hàng chục giống lúa mùa nức tiếng thuở nào như các loại
Thần Nông IR, Tào Hương, Nàng thơm, Hàng Đào, Móng Chim Rơi …được anh cất công
đem về từ các viện nghiên cứu, các trường Đại học, nâng niu gieo trồng trên những
mẫu ruộng của mình, tỉ mỉ công việc anh làm y như thuở cha ông của mình bắt đầu
cho một vụ mùa, cái khó là làm sao để lúa mùa mình trồng mà không bị ảnh hưởng
với các loại lúa ngắn ngày dùng phân bón, thuốc xịt sâu rầy từ ruộng của người khác tiếp giáp với ruộng của
mình. Anh cương quyết lúa mùa của anh phải thuần chất hữu cơ không phân bón
không thuốc trừ sâu… Mỗi ngày niềm vui được nhân lên khi nhìn hạt lúa mạnh khỏe vươn lên từ đất…
Nhắc đến đời sống cây lúa mùa, anh cho rằng nó được gắn
kết trong của quá trình lao động sáng tạo của ông bà xưa khai khẩn, canh tác
trên vùng đất miền Tây Nam Bộ và được lưu truyền qua nhiều đời theo trình tự
như phát dọn cỏ, cày bừa đất đai, gieo mạ, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, gặt lúa,
chuyển lúa về nhà, đập lúa và đổ bồ...Và đi cùng những công việc ấy đã hình thành nên những tri thức dân gian, tạo
nên một hệ sinh thái được bắt nguồn từ cây lúa nước…
Dù có đi ngược
lại thời gian, dù cho có ai nói rằng anh không thực tế với thời đại 4.0 nhưng
đó là cả tâm huyết để giữ lại cái nét đẹp mùa màng vì hạt gạo từ lúa mùa là sự
kết hợp tinh tuý của đất trời, sự giao thoa gắn kết tình đất, tình người.
"Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng
cay muôn phần" câu ca dao Việt Nam thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đến người
nông dân, những người đã làm ra hạt cơm bằng sự vất vả và hy sinh thầm lặng! Có
thể qua rồi cái thời “một nắng hai sương” hay “con trâu đi trước cái cày đi sau”
nhưng để đi tìm lại những nét đẹp văn hóa lúa mùa thì phải nói đến Lê Quốc Việt
là người tiên phong dám nghĩ dám làm.
Cái đáng nể là để phục dựng không gian văn hóa lúa mùa,
hàng trặm nông cụ được anh cất công sưu tầm từ nhiều nơi, người trân quí với
công việc của anh thì sẵn sàng trao tặng, hoặc anh tự bỏ tiền túi để có được, khiến
ai nhìn đều khâm phục nghĩ đến sự dày công của chủ nhân từng mẫu vật được trưng bày. Trong không gian hoài cổ ấy,
chợt thấy ai đó đang lặng lẽ ngước nhìn cái mê bồ ví được mấy trăm giạ lúa, rồi
có người mân mê cái đòn gánh cong oằn như đã từng trên vai của bà của má, cái liềm gặt cũ kỹ theo nhà
nông bao năm tháng… Ký ức ùa về qua những vật dụng thân quen thuở nào gắn liền
với cây lúa mà nghe lòng dâng tràn bao cảm xúc. Mỗi hiện vật trưng bày là câu
chuyện về văn hóa lúa mùa mà những người nông dân đều bắt gặp hình ảnh mình
trong đó!
Khu sinh thái Tư Lúa Mùa nằm ở địa danh vùng đất Cù Là, bao
gồm ấp Hòa Thuận, xã Vĩnh Hòa Hiệp, một phần thuộc khu phố Minh Phú, một phần
khu phố Minh Lạc của thị trấn Minh Lương nay gọi là xã Châu Thành- An Giang với
địa hình ngã ba sông , thuận tiện giao
thông trên bộ và đường thủy, ở đây hội tụ nền văn hóa của 3 dân tộc Kinh -Hoa -
Khmer. Nơi có ngôi chùa cổ hàng trăm năm tuổi, có bề dày lịch sử của người
khmer, có đình Tà Niên thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh của người Kinh, Miếu thờ Bà của
người Hoa càng tạo thêm nét văn hóa đặc
sắc, người dân biết vận dụng những ưu thế nghề nghiệp phù hợp để cùng nhau
phát triển kinh tế nơi này.
Lúa đã gặt xong, những ngày lễ hội vui chơi nông nhàn
của vùng quê rộn ràng theo điệu múa lâm thôn lạc quan yêu đời trong tiếng nhạc
ngũ âm réo rắc, những đêm rộn rã trống hội sân đình, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho mùa lúa mới lại bội thu…Tất cả như
khơi dậy một tiềm năng du lịch theo hướng nhìn tương lai vì nơi đây ngày càng
nhiều người tìm đến, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về đây để
tìm hiểu mô hình đang thu hút, tham quan khu trưng bày sản phẩm lúa mùa bán cho
du khách và các loại nông sản khác, còn như muốn được trải nghiệm khi vào mùa
lúa chín, cắt lúa, đập lúa, rê lúa, bắt cá…thì tìm đến để hòa mình vào khung cảnh
thiên nhiên.
Một phụ nữ trải lòng mình: Nhờ có miếng đất trồng lúa
mùa này mà tôi mới có dịp cầm lưỡi hái nhớ lại cái nghề cắt lúa của mình thuở
nào. Ở đây, mỗi khi lúa chín, ông Tư vẫn kêu tôi cắt lúa rồi ông trả công cho. Các cô gái trong chiếc áo bà bà, khăn rằn, nón
lá thích thú ra tận cánh đồng thao tác lại những nét xưa, cắt lúa, bó lúa để có
những tấm ảnh đậm chất Nam bộ giữa cánh đồng vàng ruộm của ông Tư đang mùa thu
hoạch. Còn gì ý nghĩa hơn sự kết nối những giá trị lớn giữa quá khứ và hiện tại.
Bức thư ngày 26/12/ 2024 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp khi
ấy là ông Lê Minh Hoan gởi cho Lê Quốc Việt, tôi có được xem. Ngoài những lời khen
ngợi, thăm hỏi, động viên và chúc mừng năm mới, có lẽ tôi tâm đắc câu danh ngôn
truyền cảm hứng của ông Bộ trưởng viết trong lá thư: “Giấc mơ lớn được nuôi dưỡng
từ những điều nhỏ bé, như hạt lúa mang trên mình sứ mệnh của cánh đồng” - Anh
Tư Việt hãy tiếp tục hành trình này, để lúa mùa miền Tây và nông sản Việt Nam
mãi là niềm tự hào của đất nước”
Ngưỡng mộ anh, không chỉ là một nhà nông mà còn là nhà
khoa học chân chính đã gìn giữ những nét văn hóa truyền thống cho các thế hệ
mai sau. Anh đã chứng minh những gì mình
làm được cho hôm nay xuất phát từ trái tim với tình yêu và niềm tin lúa mùa còn
sống mãi bằng cả tấm lòng “ôn cố tri tân” ./.



