Buổi trò chuyện về “Bảo tồn và phát triển lúa Việt - Hành trình đi đến thịnh vượng” tại Đường Sách TP.HCM sáng ngày 6/12 đã khắc họa một giai đoạn giao thoa đặc biệt của nông nghiệp Việt Nam. 

Buổi trò chuyện về “Bảo tồn và phát triển lúa Việt - Hành trình đi đến thịnh vượng”  được tổ chức tại Đường Sách TP.HCM.

Đây là thời điểm những người gìn giữ nguyên bản lúa mùa truyền thống vẫn đang miệt mài bảo tồn, trong khi các nhà nghiên cứu và người làm giống mới tiếp tục mở ra hướng phát triển phù hợp đời sống hiện đại. Xen giữa hai mạch chuyển động ấy là những người kiên trì dung hòa, lưu giữ những mã gen, những ký ức cũ để làm nền cho sự bứt phá của giống mới. Tất cả cùng góp phần bảo tồn lúa mùa như một di sản văn hóa và di sản di truyền của đồng bằng.

Những di sản còn nằm trong ký ức

Kỹ sư Lê Quốc Việt hay còn được biết đến với cái tên “Ông Tư lúa mùa” - người nhiều năm phục dựng các giống lúa mùa truyền thống - là người khơi mở câu chuyện. Ông nói về hành trình nông nghiệp đã tạo diện mạo của đồng bằng hôm nay. Trong ký ức của ông vẫn còn hình ảnh người phụ nữ nông dân đi làm ruộng trước năm 1975, tiếng phơi lúa trong sân đất, những vật dụng tre gỗ của mùa vụ xưa. 

Theo ông, giá trị mà tiền nhân để lại không chỉ nằm ở các giống lúa mà còn ở hệ tri thức nông nghiệp gắn với cách sống của cư dân vùng sông nước. Những giống lúa mùa từng thích nghi hàng thế kỷ là nguồn gen quý, mỗi giống mang theo một câu chuyện văn hóa và một khả năng chống chịu riêng.

Ông Việt kể về Festival hạt giống Thái Lan lần thứ 25 - nơi lưu giữ hàng trăm giống lúa và cây trồng. Ở Hàn Quốc, ông gặp một người nông dân đang cố gắng phục hồi hơn 400 giống lúa mùa trong tổng số khoảng 1.500 giống từng có. Dù ở quốc gia khác nhau, họ đều đối diện cùng nỗi lo: lúa mùa mất dần vì sự thay đổi môi trường và thị hiếu. 

Trong khi nhiều người theo đuổi giống mới, ông Việt chọn cách quay về lúa mùa để phục dựng đời sống nông nghiệp truyền thống. Với ông, lúa mùa là cánh cửa dẫn vào lịch sử nông nghiệp Việt Nam và là điểm tựa cho những thế hệ muốn hiểu vì sao đồng bằng tồn tại được qua bao biến động của khí hậu và thời cuộc.

Ông Tư lúa mùa không nhận mình là người phục hồi giống, mà chỉ là người thông qua cây lúa mùa để phục dựng và gìn giữ không gian văn hóa, ký ức xưa của ĐBSCL.

Những người tìm cách cải thiện giống để nuôi một quốc gia

TS Trần Ngọc Thạch - Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL nhìn lại giai đoạn Viện thành lập năm 1977, khi đồng bằng chủ yếu trồng lúa mùa một vụ, diện tích chỉ 1,7 - 2 triệu hecta với sản lượng 5 - 7 triệu tấn. Một số giống cải tiến như Thần Nông 8 đã được nhập khẩu vào nhưng chưa đủ tạo chuyển biến. 

Nhiệm vụ lúc đó là thu thập giống địa phương, cải thiện năng suất và xây dựng đội ngũ nghiên cứu. Đến giữa thập niên 1980, nhu cầu lai tạo giống ngắn ngày để tăng năng suất trở nên cấp thiết. Năm 1988, giống OM80 ra đời, mở đường cho khả năng tự chủ lương thực và đưa Việt Nam bước vào xuất khẩu gạo từ năm 1989.

TS Thạch cho biết Viện hiện lưu giữ hơn 3.500 mẫu giống lúa mùa và hơn 150 mẫu lúa hoang - một “kho ký ức di truyền” của đồng bằng. Từ nền tảng này, Viện phát triển vùng lúa tài nguyên khoảng 30.000 hecta và thực hiện trẻ hóa giống định kỳ để giữ chất lượng ổn định.

Trong phần chia sẻ tiếp theo, TS Đỗ Khắc Thịnh - nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu Cây lương thực Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam nhấn mạnh sự đa dạng của tài nguyên lúa Việt - lúa cạn, lúa nước, lúa phèn, lúa nổi - tạo nguồn gen dồi dào cho việc chọn tạo giống chống sâu bệnh, phèn mặn và thích nghi môi trường.

Ông kể rằng những ngày đầu làm giống, nhóm nghiên cứu luôn tìm cách đạt hiệu quả cao với chi phí thấp: nhập giống phù hợp, lai với giống bản địa để tạo dòng ngắn ngày và cho năng suất; sau đó mới mở rộng sang nghiên cứu đột biến. Theo ông, một chiến lược chọn giống bền vững chỉ có thể bắt đầu từ sự gắn bó với cây lúa và sự thấu hiểu người nông dân.

Ở góc khác của câu chuyện giống là chia sẻ của kỹ sư Hồ Quang Cua. Ông nói đến sự biến mất của ruộng lúa vùng Sóc Trăng giai đoạn 2001 - 2005 khi người dân chuyển sang nuôi tôm. Thu nhập từ một ký tôm tương đương 60 - 70 ký lúa khiến nhiều hộ bỏ hẳn nghề lúa. Môi trường mất cân bằng, vụ tôm thất bát, tệ nạn nông thôn tăng lên. Những năm ấy, nông dân ở Hòa Tú (Sóc Trăng) phải đi mua gạo ăn, một hình ảnh khiến ông không quên được.

Khi được giao thực hiện chương trình điều tra khả năng sản xuất lúa hữu cơ trên vùng tôm - lúa, ông Cua phối hợp với chương trình hỗ trợ giống của Canada và khuyến khích nông dân trồng lại lúa. Diện tích dần được phục hồi từ 800ha năm đầu tiên lên đến 2600ha trong ba năm.

Đến nay, ông trở lại vùng lúa tôm và đã nhìn thấy những cánh đồng liền lạc từ Kiên Giang tới giáp Cà Mau. Khoảng 120.000ha đang canh tác ST24 và ST25, tạo nền tảng ổn định cho sinh kế của người dân và giảm rủi ro trong nuôi tôm.

Ông Cua cho biết ông đang hoàn thiện giống lúa có chỉ số đường huyết thấp, phù hợp người tiểu đường. Đồng thời đến vụ đông xuân này ông và cộng sự đã thống nhất được một giống lúa ngắn ngày hơn ST25 để thích ứng với biến đổi khí hậu dù chất lượng so với ST25 còn cần nghiên cứu thêm. Đây là những hướng đi nhằm mở rộng giá trị của hạt gạo Việt sang nhóm thực phẩm tốt cho sức khỏe, đi kèm đó là khả năng chống chịu khí hậu cực đoan.

Ông Hồ Quang Cua chia sẻ về dự định sắp tới với những giống lúa ngắn ngày hơn và có chỉ số đường huyết thấp.

Từ đồng ruộng đến bàn ăn và thị trường thế giới

PGS.TS Bùi Bá Bổng - Chủ tịch Hiệp hội Lúa gạo Việt Nam - đưa buổi trò chuyện đến một tầng cảm xúc khác. Với ông, cây lúa gắn liền hình ảnh người mẹ gánh lúa, người cha gặt lúa, ký ức tuổi thơ, và cả bản sắc của người Việt. Ông gọi hạt gạo là “dòng sữa” nuôi dưỡng nhiều thế hệ, và thông điệp của ông gửi đến người trẻ là: muốn đi xa phải hiểu được cội gốc.

Ở góc nhìn thị trường, ông Bổng nhận định phân khúc gạo trắng hạt dài - nơi Việt Nam có lợi thế - đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong thương mại gạo toàn cầu. Giá thành thấp, chất lượng ngày càng ổn định giúp gạo Việt giữ vị trí cạnh tranh vững vàng.

TS Phan Thị Thu Hiền - Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II - đặt ra vấn đề an toàn thực phẩm. Bà coi đây là yếu tố quyết định khi bước vào các thị trường khó tính. Bà đề cập dư lượng hóa chất trong khâu sản xuất, nấm mốc trong bảo quản và yêu cầu tuân thủ danh mục thuốc được phép dùng tại Việt Nam. Nếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ hay các nước có tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nông dân và doanh nghiệp phải nắm rõ mức dư lượng tối đa và danh sách dịch hại bắt buộc kiểm soát. Điều này đòi hỏi kiến thức cập nhật từng năm và sự cẩn trọng trong từng khâu đồng ruộng.

TS Đỗ Khắc Thịnh bổ sung một khía cạnh quan trọng: giống lúa trồng tại mỗi địa phương sẽ cho chất lượng gạo khác nhau. Vì vậy, người sản xuất cần định kỳ mua lại giống gốc để duy trì đặc tính ban đầu. Việc này không chỉ bảo vệ chất lượng hạt gạo mà còn bảo vệ uy tín của cả hệ thống sản xuất.

Tính bền vững của chuỗi giá trị lúa gạo chỉ có thể đạt được nếu người nông dân thực sự được hưởng lợi. Ảnh minh họa TTXVN

Con đường đi đến thịnh vượng

Câu chuyện lúa gạo trong buổi trò chuyện không hướng về sự tiếc nuối mà đi thẳng đến câu hỏi cần làm gì để duy trì sự sống của cây lúa trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuyển dịch kinh tế. Mỗi ý kiến đều xuất phát từ góc nhìn riêng nhưng gặp nhau ở một điểm: sự thịnh vượng của đồng bằng gắn liền sự bền vững của cây lúa.

Ký ức của ông Tư gợi lại nền văn minh mùa vụ; kho gen của Viện Lúa mở cửa cho nghiên cứu tương lai; các giống ST của kỹ sư Hồ Quang Cua chứng minh giá trị của sáng tạo bản địa; cách tiếp cận thị trường của PGS Bùi Bá Bổng làm rõ yêu cầu phát triển chuỗi giá trị; phân tích của TS Phan Thị Thu Hiền đặt chất lượng và an toàn vào vị trí then chốt.

Tất cả hợp lại thành một bức tranh không né tránh những thách thức nhưng tin vào khả năng tự đổi mới của cây lúa lẫn người trồng lúa. Đồng bằng có quyền hy vọng vào sự thịnh vượng, khi ký ức được tôn trọng, khoa học được đầu tư và người nông dân được đặt vào vị trí trung tâm của mọi chính sách.

Phương Đặng

Theo Tạp chí điện tử Nông Thôn Việt