Câu chuyện về hạt lúa của người Tày ở vùng núi phía Bắc: ‘Mỗi khi thu hoạch xong, mé lại đi mấy vòng quanh ruộng nhà, rồi qua ruộng hàng xóm nhặt những bông còn xót lại. Mé hớn hở như đứa trẻ được quà khi cầm trên tay cả một nắm bông lúa trĩu hạt “bằng này cũng đủ con gà ăn mấy bữa rồi’.


 Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”

THƠM SUỐT ĐƯỜNG CON ĐI

HOÀNG THỊ YẾN

(Giáo viên trường THCS và THPT Nà Phặc, xã Nà Phặc, tỉnh Thái Nguyên)

 

“Dón kin vạ dón nùng chứng mì/ Đói bố dác bố zân lè zá” (Dè ăn dè mặc mới có/ Không để đói để rét là được”. Lời mé (mẹ) dạy hằng ngày đó đã bám rễ trong tâm thức tôi. Tôi thích nhất món xôi sâu sâu đen mé làm. Mỗi vụ mùa về, thóc nếp mé hái đem đồ xôi sao mà ngon và dẻo đến thế. Chị em tôi chẳng thể cưỡng lại hương thơm toả ra từ chiếc chõ gỗ khi mé đổ mẻ xôi ra. Và mỗi lần mé như thế là hai chị em tôi lại quên ngay lời dạy và cứ thế thi nhau nhón vụng. Phải chăng vì thế nên hương lúa đã thơm suốt chặng đượng tuổi thơ chúng tôi.

Mỗi lần mé làm món gì từ hạt gạo dẻo thơm, mé đều kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về lúa. Mé kể: sinh ra và lớn lên ở một huyện miền núi của tỉnh. Quê mé chập chùng đá núi, những mái nhà sàn nép mình bên chân núi và thi thoảng giữa những thung dưới kia là một vài thửa ruộng nhỏ, không thành hình vuông vắn, nên mỗi gia đình có được một hai cộp (tương đương 600m2) là hiếm hoi lắm. Vậy nên hạt gạo ở quê mé quý như vàng vậy.

Có lần, mé đồ xôi đen, loại xôi làm từ lá cây sâu sâu trên rừng thơm ngát và căng bóng với màu đen tuyền, mé lại ngậm ngùi: Ông bà ngoại con mất sớm, thiệt thòi lắm. Chẳng bao giờ được ăn bữa cơm no thì làm sao dám nghĩ đến món xôi mà chỉ làm được vào dịp mồng ba tháng ba tảo mộ. Rồi mé lại quệt ngang dòng nước mắt nhoẻn miệng cười. Giờ thì mé cũng làm món xôi này cho ông bà nhưng chỉ có thể mời ông bà ngoại về ăn theo làm hương thôi!

Mẹ làm cốm!


Có đôi khi, tôi hay hỏi: Mé ơi tại sao mé lại đồng ý lấy pá (cha) khi nhà hai người xa nhau đến vậy? Mé lại lần nữa kể về hạt gạo. Quê mé nghèo là thế nên ông bà ngoại vẫn cứ dặn rằng: Lấy ai được ăn no cái bụng thì sẽ nghĩ được nhiều việc hay, việc tốt. Sau này có con thì các con con sẽ không phải sợ cái đói, cái rách nữa. Mà nhà pá con có nhiều ruộng lắm, dù nhà đông anh em trai nhưng chia nhau vẫn được mỗi người khoảng hai ba bung (một bung tương đương 1000m2, theo cách tính của người Tày) ruộng hai vụ. Nghe mé kể mà tôi thương bà, thương mé. Có thể điều mé nói đó có phần thực dụng nhưng nó lại chân thật đến nao lòng.

Có vì thế mà mé tôi yêu từng bờ ruộng, từng bông thóc rơi vãi. Mỗi khi thu hoạch xong, mé lại đi mấy vòng quanh ruộng nhà, rồi qua ruộng hàng xóm nhặt những bông còn xót lại. Mé hớn hở như đứa trẻ được quà khi cầm trên tay cả một nắm bông lúa trĩu hạt “bằng này cũng đủ con gà ăn mấy bữa rồi”.

Dù là hai vụ nhưng ruộng nhà tôi lại gần bờ suối nên mỗi khi mưa lớn cả nhà tôi lại thấp thỏm lo âu. Tôi nhớ như in năm đó khi chị em tôi chỉ độ bảy tám tổi. Ban ngày trời nắng nóng oi nồng, bức bối. Pá tôi vừa đi sửa cái máy tuốt lúa để chuẩn bị cho sáng mai về, trên khuôn mặt hiện rõ vẻ lo lắng. Bữa cơm trưa hôm đó, như hiểu nỗi lo của pá, mé bảo: mong rằng trời đêm nay không mưa để sáng mai nhà mình tuốt cho xong đống lúa đang nằm ở ruộng.

Đêm đó, trời lại không hiểu lòng người. Mưa như trút ào ào bao nhiêu sự oi bức của buổi chiều hôm đó. Nằm trên giường mà tôi cũng không thể ngủ khi pá thi thoảng lại soi đèn pin ra sau nhà khơi mương, rồi quay vào thở dài. Mé dặn chị em tôi ở ngoan trong nhà để pá mé đi xem đống lúa thế nào. Nói chưa dứt lời thì tôi đã thấy pá mặc xong áo mưa và mé cũng vội vàng cầm cái nón choàng áo mưa đi theo sau ánh đèn pin.

Sáng hôm sau, chị em tôi thức dậy đã không thấy pá mé đâu. Nhìn ra ngoài sân thì bao nhiêu là lá cây rụng kín lối. Giàn bầu đang đậu quả cũng bị mưa gió xối tan hoang. Chị em tôi chẳng ai bảo ai cùng chạy ngay ra ruộng. Đến nơi, hai chị em bàng hoàng khi không thể biết đâu là ruộng nhà mình, chỉ thấy mênh mông nước, những chỗ xoáy như muốn nuột chửng mỏi thứ. Còn pá mé đứng bất động trên bờ nhìn dòng nước cuốn đi bao công sức, mồ hôi. Nhìn thấy chị em tôi, mé nói lớn: Đứng yên trên bờ. Nước lũ nguy hiểm lắm!

Năm đó nhà tôi lúa mất trắng. Chẳng còn hạt gạo căng tròn, trắng tinh, hương thơm phả vào mặt sau mỗi bữa cơm nữa. Mà thay vào đó ăn ngô thay cơm. Nhìn hai chị em tôi đang tuổi ăn tuổi học không đủ cơm ăn pá mé tôi rưng rưng nước mắt. Hai người bàn nhau vào rừng làm lán chăn nuôi để phần nào đỡ khó khăn. Và cũng từ đó món cơm độn ngô với chị em tôi trở thành món ăn mà tuổi thơ rất sợ.

Rồi khó khăn cũng lùi dần vào quá khứ khi pá mé đã dọn xong những đụn cát, sỏi trên ruộng để chuẩn bị cho vụ cấy mới. Chị em tôi lại háo hức được chia những cây mạ cắm xuống ruộng. Tôi lại được nhìn thấy nụ cười toả nắng của mé khi phù sa bồi đắp đã làm cho cây lúa thêm nặng bông, bát cơm thêm dẻo thơm. Pá lại hào hứng những đường cày thẳng sâu cho vụ mùa nối tiếp những mầm xanh.

Và cho đến hôm nay dù chị em tôi đã trường thành, có gia đình riêng nhưng mé vẫn một mình cặm cụi làm ruộng. Mé bảo: hạt gạo là quý lắm! Ăn bao nhiêu thứ trên đời rồi cũng chán, chỉ có hạt gạo ăn cả đời không chán thôi. Ruộng không được bỏ hoang, để lâu sẽ hỏng đất. Ông bà để ruộng cho cũng là để cho các con nhớ về nguồn cội. Nhưng chị em tôi biết, có một điều chẳng bao bao giờ mé nói,  mé làm còn vì nhớ pá. Nhớ những tháng ngày còn pá, vợ chồng sớm hôm lam lũ trên đồng, cùng nhau nuôi con khôn lớn. Giờ một mình, mé không thể tránh khỏi những lúc chênh vênh. Tôi càng thương mé hơn và thêm trân quý hơn hạt gạo mà pá mé đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt nuôi chị em tôi trưởng thành như hôm nay.

Giờ đây, dù đi làm xa nhưng mỗi khi trong lòng nặng chĩu muộn phiền cuộc sống mưu sinh thì tôi lại rủ chị về bên mé. Hai chị em tôi lại ra đồng, hương lúa phảng phất trong làn gió hiu hiu thôi trong buổi chiều êm đềm, nhạt nắng; bao kí ức tuổi hồn nhiên lại trở về trong tiếng gọi của mé: Hai đứa về ăn cơm mới. Nghĩ đến bát cơm thơm thật thơm mùi gạo mới, chị em tôi lại ùa chạy về như thuở nào….