Đồng ruộng và cây lúa đã âm thầm hun đúc nên tính cách kiên cường của những đứa trẻ thôn quê, trong đó có tôi. Có những năm mưa bão dồn dập, đồng ruộng chìm trong mênh mông nước trắng. Ấy vậy mà, chỉ cần một đọt lúa còn nhú lên khỏi mặt nước, cây lúa vẫn bám rễ mà sống, vẫn kiên trì ngoi lên.


Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”

RỘN RÀNG MÙA CẤY LÚA

NGUYỄN THANH NGỌC (Bắc Từ Liêm, Hà Nội)

Tuổi thơ tôi gắn liền với những cánh đồng lúa nơi miền đồng bằng Bắc bộ. Ngày tôi còn nhỏ, máy móc và phương thức canh tác hiện đại chưa xuất hiện, công việc đồng áng – đặc biệt là cấy lúa vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào sức người.

Vào mùa cấy, người dân quê tôi thường ghép nhóm 2-3 hộ gia đình để “đổi công”. Họ cùng làm đất, đắp bờ, nhổ mạ, cấy lúa trong tinh thần gắn bó, tương trợ lẫn nhau. Những ngày cấy lúa vụ Mùa, tuy vất vả nhưng luôn đầy ắp tiếng cười và chan chứa niềm vui đã trở thành ký ức khó phai trong lòng tôi.

Đám trẻ lớn lên ở quê như chúng tôi tự nhiên yêu mến công việc đồng áng, không hề nề hà hay cảm thấy vất vả. Tầm 8–9 tuổi, chúng tôi đã theo bố mẹ ra đồng và được sắp xếp làm việc vừa sức.

Cuối tháng Năm, đầu tháng Sáu âm lịch, ngày dài đêm ngắn, nắng cháy như nung là thời điểm diễn ra vụ cấy lúa Mùa. Người lớn thường ra đồng vào lúc vầng trăng khuyết còn treo lơ lửng trên đầu ngọn tre, sao Mai vẫn còn tỏa sáng trên nền trời bàng bạc. Còn trẻ con thì ra đồng khi trời đã hừng đông và trở về khi trời vừa chang nắng.

Tôi hay ngồi bên cánh xe thồ, theo bố mẹ và các bác tới đổi công cho gia đình mình, ra ruộng mạ ngay từ tinh mơ. Bởi tôi thích ngắm nhìn cách mọi người tụ họp lại, lên kế hoạch và phân chia công việc trong ngày.

Các bác trai tỏa ra, người đi đắp bờ, người đi xẻ nước. Các bác gái ở lại, làm công việc nhổ mạ. Tiếng đập đất từ rễ cây mạ vào chiếc thúng tre úp ngược hòa với tiếng dế ri ri, tiếng ếch nhái ộp oạp, tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau ríu rít – tạo thành một bản giao hưởng vui nhộn.

Mạ nhổ áng chừng đã hòm hòm, cũng là lúc các bác trai quay lại, xếp những bó mạ lên xe thồ. Các bác gái sẽ tranh thủ đứng duỗi lưng, thong thả buộc khăn che mặt, đội nón lá rồi dắt tay tôi theo sau. Theo đúng kế hoạch đã đề ra, mọi người đưa mạ tới thửa ruộng cần cấy.

Tới nơi, các bó mạ được phân ra, rải đều khắp mặt ruộng. Mọi người bắt đầu giăng dây cấy. Ngày đó, ở quê tôi, người nông dân sử dụng phương pháp cấy lúa hàng biên. Sợi dây thừng khổ nhỏ, làm bằng nilon, được quấn vào càng hoặc cọc rồi kéo căng trên mặt ruộng, sẽ tạo thành thước đo để cây lúa được trồng xuống với mật độ phù hợp. Lúa trồng ngay hàng thẳng lối sẽ có độ thoáng, phát triển mạnh mẽ hơn, đẻ nhánh nhiều hơn và cho nhiều bông hơn, từ đó tăng năng suất lúa.

Tôi luôn cấy lúa sát theo dây. Các bác khéo tay hơn sẽ cấy lùi trong các ô rộng từ 5–6 hàng lúa. Những ô ấy được lấy mốc bằng hàng lúa mà tôi cấy xuống. Tôi rất thích cảm giác lội chân trần xuống bùn. Lớp bùn trĩu nặng phù sa, êm mịn như nhung, núng nính hệt bát bột mì mẹ pha để đổ bánh trong những ngày mưa dầm. Nắng tháng Sáu làm mặt nước ruộng hâm hấp, nhưng sâu dưới bùn vẫn mát lạnh.

Tôi được ba mẹ và các bác chỉ cách cầm bó mạ, cách rút cây mạ, cách cắm cây mạ xuống bùn. Khi cấy lúa tám, thân mạ nhỏ, sẽ cắm 3–4 rẻ một gốc. Lúa tẻ, thân to, chắc khỏe hơn, chỉ cần cắm 2–3 rẻ một gốc. Mỗi khi bàn tay chúi xuống bùn, một gốc lúa non lại hiện lên trên mặt ruộng mênh mông.

Mọi người vừa làm vừa trò chuyện, tiếng cười, tiếng nói vang lên không ngớt. Thửa ruộng trống nhanh chóng được lấp đầy bằng những mầm xanh. Những tấm lưng khom xuống, cho cây lúa lớn lên.

Đồng ruộng, cây lúa và người nông dân đã âm thầm hun đúc nên tính cách kiên cường của những đứa trẻ thôn quê, trong đó có tôi. Có những năm mưa bão dồn dập, đồng ruộng chìm trong mênh mông nước trắng. Ấy vậy mà, chỉ cần một đọt lúa còn nhú lên khỏi mặt nước, cây lúa vẫn bám rễ mà sống, vẫn kiên trì ngoi lên.

Tôi nhớ như in có vụ mùa lúa đã trổ đòng, không may gặp thiên họa nên mất trắng. Nhưng người nông dân quê tôi chưa bao giờ chịu lùi bước. Họ vẫn ra đồng, vẫn cày, vẫn cấy, vẫn chăm sóc và nâng niu từng cây lúa. Nắng gắt mưa dầm làm thân hình họ cằn cỗi, nhưng đôi mắt họ luôn ánh lên niềm tin. Và trời chẳng phụ công người, vụ mùa sau ruộng lúa lại vàng ươm và nặng trĩu hạt.

Giờ đây, tại quê hương tôi, người nông dân không còn cấy lúa thủ công như xưa. Họ chuyển sang gieo sạ. Phương thức canh tác mới kết hợp máy móc hiện đại giúp họ đỡ nhọc nhằn hơn và tăng đáng kể năng suất mỗi vụ mùa.

Đám trẻ chúng tôi cũng đã trưởng thành. Có người chọn rời quê, lập nghiệp nơi phố thị; có người vẫn gắn bó với ruộng đồng, tiếp tục nối dài những mùa lúa. Nhưng dù ở đâu, dù đi bao xa, chúng tôi vẫn luôn trân trọng, yêu thương đồng lúa và những người nông dân nơi quê nhà./.