Mùa gặt là mùa vui nhất. Nhà nào cũng tất bật, rộn ràng. Người lớn lo thu hoạch, trẻ con thì kéo nhau ra đồng chơi đùa, bắt cào cào, châu chấu, rồi lăn lóc ngủ dưới đống rơm mới còn thơm mùi lúa. Có lần chúng tôi còn rủ nhau lấy rơm kết thành những cái chổi rơm nhỏ xinh để mang đi bán gom tiền mua những viên kẹo tăm dài to như ngón tay út có vị cay nồng, thơm thơm để ăn.


Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”

NHỚ MÙA GẶT NĂM ẤY

NGUYỄN THỊ LỆ TUYẾT (Trường Tiểu học Tằng Loỏng, xã Tằng Loỏng, Lào Cai)


Tôi lớn lên ở một vùng quê miền núi nghèo đầy nắng gió Lào Cai, nơi mà bốn bề là những ngọn núi cao trải dài bất tận. Thời ông bà, bố mẹ tôi lên đây định cư đã phải vật lộn khai hoang từng tấc đất, cạy từng tảng đá để thành được nơi ở rộng rãi như bây giờ, mọi người thời ấy ai khai hoang được nhiều thì có nhiều đất nên ông bà tôi đã làm lụng cả đời để có nhửng thửa đất dài bằng phẳng cho con cái. Thế nên khi tôi và các anh chị ra đời vào những năm 1982, cuộc sống của gia đình cũng gọi là khá không đến nỗi độn cơm sắn mà ăn.

Ngày ấy, chưa có đường bê tông, chưa có mạng internet, chưa có điện thoại thông minh, may ra thì có cái tivi đen trắng mà xem đã là oách lắm, sang lắm rồi, và cả tối ấy sân nhà đó đầy những người đến xem nhờ. Nhưng đổi lại, nơi tôi sống có những buổi chiều chạy rong trên bờ đê có con mương nhỏ dẫn nước về ruộng, có tiếng cười vang bên chân suối, có mùi thơm rơm rạ nồng nàn mỗi độ mùa gặt về, có những tiếng ve râm ran và cuộc tụ họp đi hái nấm rơm đầy sôi động ngày hè. Và trên tất cả, tôi còn có một kỷ niệm mãi mãi không quên – về một mùa gặt năm ấy, nơi tôi đã sống trọn vẹn một tuổi thơ trong trẻo giữa cánh đồng lúa quê nhà.

Ngôi nhà tranh của gia đình tôi nép mình bên bờ ruộng. Mỗi sáng, chỉ cần mở cửa là có thể thấy những đám lúa nghiêng nghiêng trong gió, óng ánh dưới ánh mặt trời như những con sóng vàng đang vỗ vào bờ đất. Hồi đó, tôi mới chỉ là một cô bé học lớp ba, dáng người nhỏ thó, chân tay lấm lem suốt ngày. Bố Mẹ tôi là nông dân chính hiệu. Suốt tuổi thơ tôi lớn lên cùng những mùa cấy, mùa gặt. Tôi không thấy khổ, không thấy buồn, bởi vì lúa và đồng ruộng đã trở thành một phần hồn tôi. Cây lúa không chỉ nuôi sống gia đình mà còn chở che cho tôi bao mộng mơ con trẻ.

Tôi nhớ như in cái hè năm ấy – năm tôi mười tuổi. Trời tháng sáu, nắng như rót mật. Những thửa ruộng đã ngả sang màu vàng óng. Khắp cánh đồng rộn ràng tiếng người, tiếng máy gặt đập, tiếng cười của lũ trẻ con tụi tôi chạy theo sau những bó lúa như đám chim sẻ náo loạn để đuổi bắt những con châu chấu, cào cào về rang ăn. Mùa gặt là mùa vui nhất. Nhà nào cũng tất bật, rộn ràng. Người lớn lo thu hoạch, trẻ con thì kéo nhau ra đồng chơi đùa, bắt cào cào, châu chấu, rồi lăn lóc ngủ dưới đống rơm mới còn thơm mùi lúa. Có lần chúng tôi còn rủ nhau lấy rơm kết thành những cái chổi rơm nhỏ xinh để mang đi bán gom tiền mua những viên kẹo tăm dài to như ngón tay út có vị cay nồng, thơm thơm để ăn.

Mỗi lần gặt, mẹ tôi lại cho tôi ra đồng cùng. Tôi bé xíu, không gặt được nhưng được giao nhiệm vụ đi nhặt những bông lúa rơi, rồi gom vào nón đầy mang về. Tôi làm việc say sưa, không vì ai bắt, mà vì tôi yêu mùi hương lúa chín, yêu cảm giác tay chạm vào hạt thóc mẩy tròn và hơn hết là những công sức suốt cả mấy tháng trời chăm bón của cha mẹ, nên không thể lãng phí những hạt ngọc ấy.

Hè năm đó còn có một điều đặc biệt khác: gia đình bác Văn – bạn của bố tôi từ thành phố Hà Nội về quê chơi. Bác Văn có cậu con trai nhỏ tên là Linh, bằng tuổi tôi. Lần đầu gặp Linh, tôi đã ngạc nhiên vì mái tóc cậu dài bồng bềnh lượn sóng trước trán, đôi mắt buồn buồn và làn da trắng bóc – khác hẳn với lũ trẻ quê tôi lúc nào cũng nhem nhuốc, đen nhẻm. Ban đầu Linh không chịu ra chơi với ai, bữa cơm ăn biếng vài miếng rồi vào phòng đọc sách hoặc cứ ngồi lì trong nhà. Nhưng rồi thấy chúng tôi cứ dí dủm, khúc khích ngoài hè nên vì tò mò, cậu ấy cũng theo tôi ra đồng chơi. Tôi dẫn Linh đi bắt chuồn chuồn ớt đỏ rực, lội suối mò cua, mò hến, cách câu cá suối, dẫn cậu ấy tìm nấm rơm để tối về nấu, rồi cùng nhau trèo lên đống rơm chơi trò trốn tìm cũng lũ bạn trong xóm. Linh dần dần quen mùi bùn, mùi rơm, và thích thú vô cùng.

Tôi không biết gọi cảm xúc đó là gì, nhưng cứ mỗi lần thấy Linh cười là tôi thấy lòng mình ấm lạ. Dù còn nhỏ, tôi đã hiểu được rằng mùa gặt năm ấy không chỉ có hương lúa chín mà còn có hương thơm đầu đời của một tình bạn ngọt ngào. Giữa những ngày phơi thóc lúa nhộn nhịp ấy, một cơn mưa lớn bất chợt đổ xuống. Cả sân lúa vàng au bỗng hòa trắng cùng cơn mưa rào bất chợt. Người lớn, trẻ con cuống cuồng chạy đua với mưa để kịp thu thóc và đậy lúa. Bố mẹ và anh chị em tôi ướt đẫm trong mưa, tay vẫn không ngừng gom thóc vào bạt đậy. Linh đứng nhìn, đôi mắt đầy lo lắng. Đêm ấy, Linh hỏi tôi:

– Hạt lúa có đau không khi bị dầm mưa?

Tôi cười:

– Không đâu! Hạt lúa quen với bùn, với mưa rồi. Nhưng nếu không ai nhặt, nó sẽ mốc, sẽ hỏng, không ai ăn được.

Sáng hôm sau, Linh mặc áo mưa, mang giỏ ra đồng cùng tôi đi nhặt lúa rơi. Tay Linh run lên vì lạnh, nhưng vẫn nhặt từng bông, nâng niu như báu vật.

Tôi bảo:

– Khi lớn lên, tụi mình sẽ cùng nhau trồng một thửa ruộng, tự tay gặt lúa, được không?

Linh gật đầu, đôi mắt long lanh như ánh nắng xuyên qua cơn mưa.

Mùa gặt kết thúc cũng là lúc Linh hết kỳ nghỉ hè quay trở lại thành phố. Tôi tiễn Linh ra xe bằng chiếc xe đạp cà tàng của mình. Linh mang theo một chiếc chổi rơm lúa nếp xinh xinh đầy mùi lúa mới mà mẹ tôi kết thành cùng cặp bánh chưng gạo nếp mới, còn tôi tặng Linh một bông lúa tròn mẩy vàng óng tôi giữ lại, ép trong quyển sổ nhỏ.

– Tớ sẽ về nữa, mùa gặt sau nhé! – Linh nói, vẫy tay.

Nhưng rồi, mùa gặt sau và nhiều mùa gặt sau nữa, tôi không còn gặp Linh. Gia đình bác Văn chuyển nhà vào Nam để công tác. Cuộc sống đưa tôi theo những con đường khác. Tôi lên thị xã học rồi thi đại học. Những cánh đồng ngày xưa dần được bê tông hóa, máy móc thay người, mùi rơm thơm ngày cũ vẫn còn nhũng ít dần.Sau mỗi lần hè về, lòng tôi lại xao xuyến nhớ mùa gặt năm ấy – mùa gặt có Linh, có tuổi thơ, có những ngày cười vang trên cánh đồng vàng óng ả.

Làng quê tôi giờ đã đổi khác nhiều, nhà cửa khang trang hơn, nhưng những cánh đồng lúa vẫn còn đó, vẫn trải dài, vẫn gió thổi rì rào từ con suối thổi về mỗi buổi chiều. Tôi đứng giữa đồng, nhắm mắt lại, ngỡ như vẫn nghe tiếng cười của đứa trẻ năm xưa, vẫn thấy bóng dáng Linh chạy theo đàn chuồn chuồn.

Cha tôi đã mất hơn 5 năm, Mẹ giờ đã già, mái tóc điểm bạc, nhưng nụ cười vẫn như ngày xưa. Trong chiếc rương gỗ cũ kỹ, tôi tìm thấy quyển sổ năm nào cùng một loại với quyển sổ tặng Linh. Bông lúa ép khô vẫn còn đó, tuy nhạt màu nhưng nguyên vẹn. Tôi khẽ mỉm cười. Linh không về, nhưng ký ức thì chưa từng rời đi.

Cây lúa – một biểu tượng thân thương của quê hương – không chỉ là nguồn sống, mà còn là nơi cất giữ biết bao ký ức tuổi thơ. Với tôi, cánh đồng lúa không chỉ là cảnh vật, mà là một phần máu thịt, là bầu trời ký ức, là nơi tôi từng hồn nhiên, từng mơ mộng, từng yêu thương lần đầu tiên.

Mùa gặt năm ấy đã trôi qua rất lâu, nhưng mỗi khi nhìn thấy cây lúa đong đưa trong gió, tôi lại thấy tuổi thơ mình đang chạy nhảy giữa cánh đồng, thấy bố mẹ đang cười, thấy Linh đang vẫy tay… và tôi biết, tôi đã mang theo cánh đồng lúa quê nhà đi suốt cuộc đời.