Chẳng mùa nào chân tay lũ trẻ con trong xóm được lành lặn, vào vụ gặt còn thêm màn gãi sột soạt nhưng không đứa nào cưỡng được sức hấp dẫn từ những nhánh rơm cứng cáp thoảng hương gió đồng, giờ thêm nồng nồng vị nắng, thứ nắng đậm đà, oi ả, miên man.
Bài dự thi “Lúa gạo Việt- Nguồn cội và tương lai”
HƯƠNG RƠM – ĐỜI LÚA
NHẤT MẠT HƯƠNG (Bắc Ninh)
Cuối tháng 5, cánh đồng làng vàng rực. Đi
bên đường đã ngửi thấy mùi hương lúa mới. Nắng gội trên những tấm thảm óng
vàng, bất tận. Những chiếc lá phía dưới cùng đã ngả màu nâu sậm, dấu hiệu đầu
tiên của một đời rơm. Bố mẹ hay nhìn thóc lúa đoán mùa màng, mùi thóc lẫn với
mùi mồ hôi mằn mặn. Hai người thích mùi thóc. Còn tôi, tôi thích mùi rơm. Từ vị
âm ẩm lúc mới gặt về đến khi thơm tho chất cao lên đống.
Những bó lúa chở về được xếp thành cầu bên
hiên nhà, đợi máy tuốt vò cho sạch. Khi những hạt thóc căng mẩy rào rào đổ xuống
nền gạch thì từng con rơm sẽ được vứt ra góc chéo sân. Mẹ cầm cái cào gỗ, vừa
cào thóc từ chân máy tãi đều ra vừa lôi rởm. Rởm là những búi rơm ngắn, mảnh cuộn
tròn trong răng máy tuốt, không kéo ra sẽ làm mắc guồng quay. Sân thóc vàng ươm
kết thúc bằng một bãi rởm hỗn độn phía cuối sân ra cổng. Rởm phơi nhanh khô
nhưng hay lẫn thóc.
Từ sáng đến chiều mà nắng giòn là đã có thể
ôm vào bếp nấu. Lửa nỏ bừng bừng, từng hạt thóc lẫn nở xòe như những bông hoa
trắng xinh mà chúng tôi gọi là bỏng. Bình thường nấu cơm mà được hạt bỏng thì
vui phải biết. Nhưng ngày mùa, đun bếp từ rởm rơm, tiếng nổ lách tách vang lên
liên tiếp thành một cơn mưa vui mắt. Chỉ cần dùng que cời gạt khéo là có thể nhặt
được lưng bát con; vừa nấu, vừa nhón bỏng ăn, mặc cái nóng thiêu đốt trong gian
bếp nhỏ và cái nắng bừng bừng ngoài ngõ, mặc nồi cơm trên bếp sôi trào…cảm giác
thú vị biết bao! Mùi rởm quyện mùi nắng, mùi bỏng nồng nàn.
Xong
màn cào, tãi thóc, mẹ sẽ làm đai. Ba hoặc năm bó nhỏ được đặt ngay ngắn, lấy liềm
mổ cho đứt sợi rơm buộc ở phần gốc, túm gọn phần đầu rồi rũ cho rơi hết những
chỗ rơm thừa, rối, thế là được một con rơm. Khi phơi, có thể vắt lên tường, chạc
cây thành hai vạt, hoặc xòa ra như chiếc com pa trên mặt đất. Nhà nào cũng làm
ruộng, giữ rơm nên đều cần chỗ phơi phóng. Từ rìa sân, khoảnh vườn đến bờ ao,
bãi đất trống…những con rơm xếp hàng ngang dọc, nối đuôi nhau tít tắp. Mẹ dặn
chúng tôi nhanh nhẹn dậy sớm phơi rơm không hết chỗ. Bãi rơm nhà nọ, nhà kia nối
nhau nhiều khi không thể phân định. Đó là khu vực phơi những con rơm đã được buộc.
Hết chỗ gác, bày sẽ phải tung ra phơi rối. Khắp mặt ngõ, đường làng, bờ cỏ…rơm
được tung lên xếp lớp, tạo thành những tấm thảm mềm mại, rộn ràng.
Chúng tôi thích thú nhón chân trên tấm thảm
đặc biệt ấy, hứng chí còn lăn lộn đùa nghịch không biết chán. Con đường làng
như được khoác một tấm áo mới lúc bình minh: rực rỡ, giàu có và thanh bình đến
lạ! Mặc người lớn luôn miệng nhắc nhở, đùa vừa kẻo mà rặm ngứa. Chẳng mùa nào
chân tay lũ trẻ con trong xóm được lành lặn, vào vụ gặt còn thêm màn gãi sột soạt
nhưng không đứa nào cưỡng được sức hấp dẫn từ những nhánh rơm cứng cáp thoảng
hương gió đồng, giờ thêm nồng nồng vị nắng, thứ nắng đậm đà, oi ả, miên man.
Kết quả, một đống rơm dậy lên màu nắng đã
ung dung đứng bên cổng. Là nguồn dự trữ chất đốt suốt nửa năm. Nên vụ nào được
nắng, chất xong đống rơm, mắt mẹ lấp lánh niềm vui.
Khi nhìn thấy đống rơm tự tại, trầm tư,
tôi biết mùa gặt đã thực sự khép lại. Sân, ngõ, cổng nhà sẽ thảnh thơi đón nắng,
gió, lá khô chứ không bời bời nhịp mùa, lối thóc.
Hương rơm ủ sâu dần trong đống. Đợi những
chiều hôm hay sáng sớm, khi rút vào trong bếp lại bừng lên xao xuyến. Cơm, canh
nấu cơm rơm như đậm vị hơn. Vị của hạt gạo dẻo thơm, của đồng quê, nắng lửa, của
gió, của mây, của muôn vàn giọt mồ hôi trên trán mẹ se đọng lại.
Những ngày mưa gió, rét mướt… đội nón rút rơm, ôm trên tay ôm rơm ấm sực như ôm cả mùa đầy. Hương rơm phập phồng nơi cánh mũi, man mác, rưng rưng- là sự chắt chiu tận cùng của cuộc đời mỗi thân lúa quê hương.