Nghề làm nông, nghề trồng lúa ngày càng phát triển và góp phần không nhỏ trong quá trình xây dựng quê hương tôi thêm trù phú. Tiếng máy tuốt lúa không còn vang lên trong những mảnh sân nhỏ khi người nông dân chuyển sang dùng máy gặt đập liên hoàn.
Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội
và tương lai”
THANH ÂM VÀ HƯƠNG SẮC MÙA VỤ
NGUYỄN THANH NGỌC (Hà Nội)
Tôi sinh ra và lớn lên tại một làng
quê yên bình thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Một năm, quê tôi có hai vụ lúa chính là vụ
Chiêm và vụ Mùa. Trong ký ức của tôi, bức tranh mùa vàng luôn sống động một cách
kỳ lạ với đủ đầy hương sắc và âm thanh.
Thuở còn nhỏ, tôi có phần yêu mến vụ
lúa Chiêm hơn. Thu hoạch vụ Chiêm trùng với kỳ nghỉ hè. Những ngày đó, không vướng
bận bài vở, tôi cùng anh chị thoải mái nô đùa trên ngả đường quê trải vàng rơm
rạ và cùng nhau phơi thóc, gảy rơm và lắng nghe tiếng máy tuốt lúa.
Khi sao Mai còn tỏa ánh sáng trên nền
trời bạc thếch, bóng tối vừa lùi về chân trời xa xăm, ba mẹ tôi đã hối hả ra đồng
gặt lúa. Đến chiều tối, từng bó lúa vàng óng ả được thồ về nhà và chất đầy góc
sân. Lũ trẻ chúng tôi háo hức rủ nhau đi gọi máy tuốt.
Chiếc máy to nặng, sơn xanh có lắp ba
bánh xe cao su để dễ bề di chuyển. Bác thợ cầm tay kéo, cong lưng lôi máy đi
như dắt một con trâu đực. Từ sáng sớm đến tối mịt, tiếng máy tuốt vang khắp nẻo
đường quê, tựa như tiếng reo hò mừng mùa vụ bội thu của một đứa trẻ tinh nghịch.
Âm thanh của nó ồn ào đến mức chỉ cần hơi dỏng tai nghe là tôi có thể xác định
máy tuốt đang làm việc ở đâu và dễ dàng chạy tới gọi.
Khi tới nhà tôi, bác thợ khéo léo kéo
gọn chiếc máy tuốt vào góc sân, đứng cạnh đống lúa cao ngất. Ông nội giục đám
con nít chúng tôi chạy hết vào nhà, đóng chặt cửa để tránh bụi rặm. Chúng tôi
chỉ được xem máy tuốt lúa qua ô cửa sổ.
Máy tuốt bắt đầu làm việc. Tiếng máy
vang lên sầm sập kèm theo mùi xăng dầu. Mùi hăng hăng của dầu máy hòa với mùi nắng,
mùi lúa mới thơm lạ lùng. Người lớn trong nhà và thợ tuốt lúa mỗi người một
tay. Người thì tung bó lúa lên máng. Người gỡ lạt đưa dần từng chút lúa vào cửa
máy. Người mang thúng hứng thóc chảy ra rồi đổ vào bao. Người vần bao thóc để gọn
vào góc hiên. Mọi việc diễn ra nhanh chóng, nhịp nhàng. Chiếc máy tuốt hăng say
lao động, kêu uồm uồm không ngừng.
Từ ô cửa nhỏ ở cuối thân máy, rơm
xanh phun ùn ùn theo hình cầu vồng, dần dần chất thành một đống nho nhỏ. Mùi
rơm tươi phả ra nồng nồng, trong không gian còn thoảng chút vị ngọt ngào. Không
ít lần tôi thầm ước ao được chạy qua chạy lại dưới đường rơm cong cong mà máy
tuốt nhả ra. Tôi muốn rơm phủ lên đầu để thỏa sức đắm mình trong mùi hương tươi
mới, được nhảy múa, hò hét theo tiếng reo vang của máy tuốt lúa.
Khi đống lúa cao đã được xử lý hết,
bác thợ cầm chiếc chổi cùn quét thật gọn những cọng lúa còn vương trên máng,
cho hết vào cái miệng háu đói của máy tuốt. Chiếc máy kêu “sực” một tiếng, hoàn
thành nốt nhiệm vụ. Sau đó, máy lại đủng đỉnh rời đi theo tiếng gọi: “Máy tuốt
ơi!”
Sáng hôm sau, nắng buông vàng, cánh đồng
đã lộ ra những mảng đất nâu xen lẫn màu vàng của lúa chín. Đám trẻ chúng tôi nhận
nhiệm vụ phơi thóc, phơi rơm cùng ông nội.
Anh chị em chúng tôi háo hức chờ được
ông nội phân công công việc. Hai đứa lớn nhất đặt hai chiếc gậy gẩy rơm song
song nhau, ôm từng bó rơm thật to đặt lên trên rồi khênh ra đường. Mấy đứa nhỏ
theo sau, chờ cho rơm được ngả xuống đường liền hối hả cầm gậy gẩy ra, trải thật
mỏng, thật đều khắp con đường nhỏ bao quanh nhà. Rơm tươi được ủ trong một đêm,
mùi nhựa sống hòa với mùi đất và sương đêm tạo thành từng sợi khói trắng mang
theo hơi ấm bốc lên ngai ngái.
Ông dặn phơi rơm cần trải đều, tránh
bóng râm, cách 1-2 tiếng sẽ gẩy cho sợi rơm tơi. Rơm phơi tốt thì khi “đánh”
thành cây mới bảo quản được lâu, đun bếp ít khói, trâu bò ăn vào không bị bệnh.
Những chiếc gậy gẩy rơm được ông nội
làm từ thân tre cật, bóng loáng lên theo thời gian. Một đầu gậy được chẻ làm
đôi, vát nhọn, chèn nêm gỗ và buộc cố định tạo thành hình tam giác. Chúng tôi cầm
chiếc gậy đó lật qua lật lại cho rơm khô đều. Mỗi lần gẩy rơm, anh chị em chúng
tôi đều thi nhau xem ai gẩy nhanh hơn, ai gẩy tơi hơn.
Thỉnh thoảng cao hứng, chúng tôi tổ
chức thi lộn nhào, nhảy xa, nhảy cao trên thảm rơm vàng. Con đường phơi rơm như
một tấm thảm êm, đám trẻ chúng tôi chạy nhảy không biết mệt, cũng không biết
chán. Rơm ôm chúng tôi vào lòng, nâng đỡ từng bước chân chúng tôi non dại. Tiếng
rơm lào xào hòa vào tiếng cười chúng tôi giòn tan. Ông nội ngồi trước hiên nhà,
nhìn đàn cháu thơ đùa vui, nở nụ cười tươi hơn cả màu nắng.
Ông nội dạy chúng tôi cách phơi thóc.
Trời nắng to thì dàn luống cao khoảng 10cm, cách nửa tiếng đảo lại luống mới. Nắng
không gắt thì dàn thóc thật mỏng rồi lấy bồ cào tạo thành luống nhỏ. Phơi cho đến
khi hạt thóc săn lại, khô đều, từng hạt tròn mẩy vàng ươm. Cắn trong miệng nghe
tiếng giòn thanh. Bóc vỏ trấu lộ ra hạt gạo trong trẻo. Thóc phơi như vậy sẽ cất
giữ được lâu, không bị ẩm ướt, không bị nấm mốc, hạn chế mối mọt. Khi xay xát
thành gạo, nấu thành cơm mới có vị dẻo, mùi thơm.
Qua những việc nhà nông thường ngày,
ông luôn tỉ mỉ dạy cho chúng tôi cách quan sát, học hỏi để thực hiện công việc
một cách có hiệu quả nhất. Thông qua sự rèn dũa của ông, chúng tôi cảm nhận được
giá trị của sự cẩn thận và lợi ích của việc thiết lập quy trình trong công việc.
Đến khi chiều tà, sau một ngày trải
mình dưới nắng, thóc dần khô vỏ, rơm tươi xanh đã ngả hoàn toàn sang màu vàng
óng ả. Hương thơm của rơm, của thóc đã biến đổi một cách tinh tế. Thân rơm khô
giòn, không còn mùi ngai ngái mà thơm đượm mùi nắng. Thóc cũng bắt đầu tỏa ra
mùi thơm ngan ngát nồng ấm vương vấn mãi nơi đầu mũi. Chúng tôi cùng nhau thu dọn
rơm, thóc gọn gàng.
Mặt trời ngả hẳn về tây, nhuộm hồng một
mảnh thinh không rộng lớn, ba mẹ tôi lại kéo về những xe lúa nặng, chất đầy một
góc sân. Gương mặt họ đỏ bừng, mồ hôi ướt đầm lưng áo nhưng đôi mắt họ lấp lánh
ánh sáng mừng vui khi nhìn những bông lúa trĩu nặng và hạt thóc tròn mẩy. Lũ trẻ
chúng tôi lại dỏng tai tìm tiếng máy tuốt rồi vui vẻ chạy đi gọi máy về nhà.
Quê nhà tôi ngày một hiện đại. Nghề
làm nông, nghề trồng lúa ngày càng phát triển và góp phần không nhỏ trong quá
trình xây dựng quê hương tôi thêm trù phú. Tiếng máy tuốt lúa không còn vang
lên trong những mảnh sân nhỏ khi người nông dân chuyển sang dùng máy gặt đập
liên hoàn.
Mỗi khi đến mùa gặt, đám trẻ trong
làng lại ríu rít rủ nhau ùa ra đồng xem máy gặt chạy. Ngắm ánh mắt trẻ thơ sáng
như sao, háo hức nhìn theo từng chuyển động của máy gặt đập. Nhìn những bao tải
chứa thóc căng đầy. Lắng tai nghe tiếng người nông dân cười nói rộn ràng mừng vụ
mùa bội thu. Tôi tin rằng cây lúa sẽ mãi được người dân quê tôi thương mến và
nâng niu.
Mùi rơm tươi, mùi thóc mới khiến mắt tôi cay xè. Tôi nhớ ông nội, nhớ tuổi thơ hồn nhiên đã lớn lên trong thanh âm rộn rã và hương sắc tươi thắm của mùa thu hoạch lúa.