Tuổi thơ ta thích nhất cũng là chơi trò trốn tìm cùng lũ bạn quanh những đống rơm, chui vào trong cái hốc được hình thành qua nhiều lần tút rơm cho trâu bò. Tuổi thơ, khi cha mẹ đi làm đồng, nắm rơm thành nùi lửa để đi xin nhà hàng xóm khi chiếc máy lửa cha cạn dầu hết đá…


Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”


NGÕ QUÊ NHỚ SỢI RƠM VÀNG

ĐINH HẠ (Nghệ An)

 

Chiều tà, đưa con ra cánh đồng làng đã thảnh thơi sau vụ gặt để thả diều. Kí ức tuổi thơ bỗng rưng rưng ùa về, dẫu không còn những con diều giấy tự làm như ngày xưa mà thay vào đó là những con diều vải bán đầu cửa hàng. Ngước mắt theo cánh diều, lòng thấy an nhiên lạ kì. Bỗng mùi khói cay xè bay khắp. Thì ra mấy nhà đang tranh thủ rơm khô, đốt để làm sạch ruộng chuẩn bị cho mùa vụ mới. Nhìn sợi khói bay theo cánh diều, ta bâng khuâng nhớ, bùi ngùi thương, vơ vẩn tiếc, ngày xưa những sợi rơm vàng.

Đống rơm là một trong những hình ảnh gần gũi, thân thuộc của cuộc sống làng quê. Xưa, đống rơm còn là một thứ tài sản to lớn của mỗi gia đình. Nhà nào cũng trăn trở, lo lóm để có được đống rơm to; thậm chí có nhà còn trữ 2,3 đống.

Ngày ấy, khi làng quê còn cơ bản nghèo đói, làm nông còn vất vả, trâu và người cày bừa khó nhọc cùng nhau chứ chưa hiện đại hóa như bây giờ thì để có được cây rơm là cả một sự kì công. “Lúa gặt rồi còn để lại rơm thơm…” câu hát “Khúc hát sông quê” rưng rưng nỗi nhớ. Sau khi trục (sau tiến bộ hơn là máy tuốt), rơm lại được chất lên xe bò lốp để chở ra ngõ làng, bờ đê dành chỗ được nắng để phơi. Nắng to, rải đều, trở thường xuyên thì chỉ một ngày là khô khén. Cũng có những mùa vụ mưa nắng thất thường, rơm ngập nước, hư thối trong sự xót xa, tiếc nuối của nông dân.

Mỗi nhà dành một khoảnh đất rộng để xây đống rơm. Để xây được to, tròn, cao phải có cọc làm tâm. Cọc là cây tre dài hoặc bất cứ cây gì miễn là thẳng, lâu mục đỡ phải thay. Nhà tôi xưa có ống sắt phi 90 mà nghe cha bảo trước đây là ống dẫn dầu cha mua lại. Xây đống rơm cần ít nhất là hai người. Là con trai, thích leo trèo nên nhiệm vụ của tôi bao giờ cũng là trèo lên đống rơm để nhún nhẩy, dẫm rơm lèn cho chặt xuống, vừa để xây được nhiều rơm, vừa đỡ hư rơm sau bao ngày mưa nắng. Cây rơm ngày càng cao lên càng được phóng tầm mắt ra rộng hơn đầy thích thú. Làng quê yên bình với những mái nhà vờn khói làm chiều. Nhìn xa hơn, lòng lại khao khát, háo hức về những chân trời xa tít tắp với niềm mơ ước được khám phá.

Sợi rơm được người nông dân trăn trở, trân quý bởi nó nhiều công dụng. Khi còn trục lúa thì những bó rơm nếp thân to, vàng óng, thơm dìu dịu được các bà, mẹ lựa chọn, xoắn bện lại thành những chiếc chổi rơm với nhiều công dụng khác nhau. Thế hệ 7x, 8x hẳn còn nhớ mãi lời bài hát trong kí ức “Một sợi rơm vàng là hai sợi vàng rơm. Bà bện chổi to, bà làm chổi nhỏ…” mà trẻ con bây giờ thật khó để hình dung.

Rơm là thức ăn dự trữ cho trâu bò trong những ngày mưa bão hay mùa đông giá rét. Nếu như rạ dùng để bỏ chuồng trâu, lợn thì rơm là món khoái khẩu của chúng sau những buổi cày bừa mệt nhọc. Trước nữa, thuở còn nhà tranh vách đất, rơm còn được trộn với bùn non đắp lên những thanh tre ngang dọc làm thành vách nhà. Tuổi thơ xưa ta từng ở những ngôi nhà trên mái tranh dưới phên đất như thế.

Tuổi thơ ta thích nhất là những lúc nhìn gà mái nhảy ổ. Một chiếc rổ hoặc thúng hư, mẹ lót nắm rơm thế là thành ổ cho gà cục tác. Ổ trứng hồng dưới những sợi rơm vàng gợi lên bao niềm mong uớc. Tuổi thơ ta thích nhất cũng là chơi trò trốn tìm cùng lũ bạn quanh những đống rơm, chui vào trong cái hốc được hình thành qua nhiều lần tút rơm cho trâu bò. Tuổi thơ, khi cha mẹ đi làm đồng, nắm rơm thành nùi lửa để đi xin nhà hàng xóm khi chiếc máy lửa cha cạn dầu hết đá. Tuổi thơ, ta nhớ làn đứa bạn nghịch dại, ném mồi lửa vào đống rơm để rồi cả xóm phải xúm vào chữa cháy. Kí ức chắc giờ còn hằn những vệt roi mót sau mông.

Rơm còn được mẹ đem rải dưới chiếu trong những ngày đông tháng giá quê mình. Nếu không có hơi ấm ổ rơm thì chiếc chăn chiên mỏng làm sao chống lại được giá buốt tái tê. Rơm còn được làm chất đốt để sơ chế khi làm thịt ngan vịt, chó mèo. Kể cả bây giờ, dẫu có bình gas khò vàng hươm những cảm giác khi ăn vẫn không thấy thơm ngon như thui bằng rơm rạ quê nhà. Đống rơm nơi đầu ngõ còn là nơi hẹn hò lí tưởng cho bao trai gái làng quê để tránh sự dò xét của phụ huynh, rồi nên vợ nên chồng. Đống rơm nơi đầu ngõ, nơi ta mong ngóng mỗi mùa mưa, dưới chân đống rơm ẩm ướt mọc lên tua tủa những cây nâm to béo, ngọt lành. Đống rơm nơi đầu ngõ như là ngọn hải đăng dẫn lối về yêu thương. Đống rơm nơi đầu ngõ chỉ còn vợi vời trong kí ức mờ xa.

Bao nhiêu kỉ niêm về công dụng, sự thân thuộc của đống rơm cứ như một cuốn phim kí ức đẹp chầm chậm quay về. Có phải vì mùi khói đốt đồng của hiện tại hay nỗi nhớ ngày xưa làm mắt ta thương nhớ cay xè. Con trẻ ngây thơ hỏi làm sao mà cha khóc? Cha có biết làm sao mà mình khóc đâu. Hay tại cha đang hình dung nhớ lại một thời thơ trẻ khi đi học trên trường huyện về. Mùa gặt, trời trưa, bụng đói, rướn đạp xe qua những ngõ rơm vàng, xích líp quấn đầy rơm, gỡ mãi không được, tự dưng đứng khóc hu hu trong vắng lặng ngõ quê…