Tôi vẫn nhớ những lần nhà tôi quạt lúa, khi thì vào buổi sáng, khi vào buổi chiều, có khi vào ban đêm đến tận khuya. Thường thì ba tôi là người cầm quạt, có lúc mạ tôi cầm. Phải quạt đều tay mới lấy được lúa sạch.
Bài
dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”
CHIẾC
XE QUẠT LÚA
LÊ
PHI TÂN (Báo và Phát thanh truyền hình Huế)
Nó được gọi là chiếc máy
quạt lúa, chiếc xe quạt lúa hay là chiếc quạt lúa…Lâu quá rồi, nên tôi cũng
quên hồi đó nó được gọi tên chính xác là chi. Mà cũng lạ, là máy nhưng không có
động cơ, là xe mà không có bánh. Nói chung nó được sử dụng bằng tay, đi chuyển
từ nhà này sang nhà khác phải và phải có 2 người bưng nó 2 đầu, tất nhiên khi vận
hành để quạt lúa cũng phải dùng tay để đổ lúa lên cái phễu và dùng tay để quạt…
Làng tôi có 9 đội sản xuất
nông nghiệp thì mỗi đội như rứa được trang bị 1 chiếc xe quạt. Ngày mùa, chiếc
xe không bánh này di chuyển từ nhà này sang nhà khác từ sáng sớm cho đển đêm
khuya; cho đến ngày hợp tác xã thông báo xã viên mang lúa nhập kho thì những
chiếc xe quạt này lại được tập trung lại ở sân hợp tác xã để làm nhiệm vụ quạt
lại những bao lúa chưa đạt chất lượng…
Chiếc xe quạt lúa là đại
diện cho thế hệ những vật dụng thủ công giúp con người sản xuất lúa gạo cùng những
chiếc cày bừa, chiếc xe đạp nước, máy tuốt lúa bằng chân đạp và độc đáo nhất là
chiếc cối xay lúa… Một ông anh cùng quê với tôi rất giàu tri thức dân gian bản
địa giải thích cặn kẽ về những vật dụng thủ công gắn liền với mùa màng một thuở:
“Nguyên thủy xe quạt lúa có 4 bánh xe bằng gỗ ở 4 chân để đẩy đi trong phạm vi
sân phơi hợp tác xã, nhưng do bánh xe hay bị hỏng và khi quạt phải chêm chân quạt
cho khỏi rung lắc bất tiện, nên sau người ta bỏ dần.
Cũng như xe đạp nước từ
đìa, hói nước vô ruộng cũng gọi là xe đạp nước dù không có bánh xe di chuyển. Hồi
trước làm ruộng còn có cộ(cỗ) xe để chất cây lúa khi gặt xong mà không thể ôm được vô bờ. Vùng ruộng sâu ôm được
bó lúa khi gặt vô được bờ bó thành bó quá bất tiện. Vậy nên, họ đóng cái xe đẩy
theo bạn gặt, gặt đến đâu bỏ lúa lên xe để cho lão nông dân bó lạt giang hoặc lạt
tre,sau đó dùng đòn xóc nhọn hai đầu xóc 2 bó lúa đưa lên vai cho người gánh về
kho sân hợp tác xã luôn. Gánh lúa thì cực thôi rồi vì nặng cũng ráng chứ không được
nghỉ, vì khi nghỉ hạ lúa xuống sẽ rụng hạt. Ruộng sâu mà gánh được hai bó lúa bị
ướt vô thấu bờ là bở hơi tai.
Thực ra, cái xe gặt lúa
như cái sàn sân khấu nhỏ đẩy dưới ruộng nhưng không có bánh xe thay vào đó là
hai cái càng như xe trượt tuyết ở bên Tây .Vì đẩy dưới ruộng toóc sợ chúi mũi
xuống bùn nên đầu hai càng dưới gắn hai sừng trâu cho bề cong nhọn võng lên
trên, khi đẩy vừa có công dụng gạt cộc tóoc ,vừa không chúi mũi xuống bùn. Mấy
lão nông tri điền xưa nhìn vậy mà hay đáo để...”
Khi các loại máy móc hiện
đại có mặt trong sản xuất nông nghiệp, thì những vật dụng thủ công này được
thay thế dần. Riêng chiếc xe quạt lúa bằng tay vẫn còn được dùng một thời gian
dài nữa. Khi điện lưới về, nông dân đã dùng những chiếc quạt máy bằng điện sử dụng
trong sinh hoạt hàng ngày và họ đưa luôn những chiếc quạt này vào sử dụng để quạt
lúa luôn cho tiện lợi. Chiếc xe quạt một thời là của quý bị lãng quên dần rồi nằm
im lìm trong một xó xỉnh nào đó của hợp tác xã…
Hồi đó, mấy chục gia đình
làm nông sử dụng chung một chiếc xe quạt nên nhà ai cũng tranh thủ khi lúa khô
khén là gánh lúa xuống ngã ba đầu xóm để dên lúa. Công đoạn này cũng khá mất
nhiều công sức. Bưng được chiếc xe quạt về sân nhà mình là mừng lắm. Tôi vẫn nhớ
những lần nhà tôi quạt lúa, khi thì vào buổi sáng, khi vào buổi chiều, có khi
vào ban đêm đến tận khuya. Thường thì ba tôi là người cầm quạt, có lúc mạ tôi cầm.
Phải quạt đều tay mới lấy được lúa sạch.
Mấy anh em tôi thỉnh thoảng
cũng được quạt nhưng chủ yếu là quạt lại những thúng lúa xép để bòn mót thêm
vài ký lúa chắc. Công việc chính của tôi hồi đó là xúc lúa từ sân để đổ lên chiếc
phễu. Chiếc phễu cao ngang đầu người lớn nên để đổ được lúa thì phải bắc thêm một
chiếc ghế. Tôi không hiểu lắm về thiết kế của chiếc xe quạt, chỉ biết rằng khi
lúa được quạt thì những hạt lúa chắc ra một cửa, cửa bên cạnh là những hạt lúa
lem lép; bụi bặm, rơm rạ vụn bị tống thẳng ra ở ô đầu quạt.
Ngoài việc xúc lúa đổ lên
phễu, tôi còn được ba giao một nhiệm vụ nữa là dùng phấn để đánh dấu đếm được
bao nhiêu thúng lúa (mỗi thúng 15kg). Những năm được mùa, thường ba tôi quạt
hăng lắm như không biết mệt, ông tính toán mỗi sào cũng được 15, 16 thúng rồi,
rứa là năm ni được mùa. Có khi mất mùa, quạt
nhanh xong nhưng nét mặt ba tôi lại không vui…Nhớ nhất là những lần quạt
lúa vào ban đêm, nhà tôi chong đèn để quạt. Ai cũng mệt nhưng phải quạt cho
xong để còn đến phiên nhà khác…
Sáng nay, tình cờ gặp lại bức ảnh “người bạn nhà nông” một thuở của thằng bé tôi trên facebook một người bạn. Tôi định sẽ viết nhiều chuyện quanh chiếc xe quạt này nhưng tự nhiên lại quên mất nhiều kỷ niệm hay về nó. Tôi chỉ nhớ nụ cười của ba tôi, của mạ tôi và của những người nông dân làng tôi thuở nào lấp lánh trong đêm hè khi giã lúa cuối cùng được quạt xong. Và nhớ cả mùi mồ hôi lẫn trong hương lúa mới…