Thiếu tá Đặng Văn Đồng đang công tác tại Lữ đoàn 171, Vùng 2 Hải quân đã chia sẻ câu chuyện gia đình mình vào những mùa thu hoạch bận rộn và tất bật giữa thời tiết khắc nghiệt của miền Trung. Những hạt lúa ánh lên sắc vàng no ấm và thương yêu, vẫn theo người lính suốt bao năm tháng vui buồn.
Bài dự thi
“Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”
TRỐN TRỜI
MƯU SINH
ĐẶNG
VĂN ĐỒNG (Lữ đoàn
171, Vùng 2 Hải quân)
Giữa miền
Trung gió Lào, nắng lửa, người dân quê tôi từ bao đời vẫn “trốn trời mưu sinh”
bằng những đêm gặt trăng sáng. Từ tiếng gọi í ới trong làng, những chuyến xe bò
lộc cộc ra đồng, đến nụ cười hồn hậu trên cánh đồng ngập lúa, tất cả đã tạo nên
một nét văn hóa mộc mạc, vừa lam lũ vừa rộn ràng tình làng nghĩa xóm. Giờ đây,
máy móc đã thay sức người, nhưng ký ức về những đêm gặt “chạy đua với mặt trời”
vẫn in đậm, như một phần hồn quê chẳng thể phai.
Từ lúc
nửa đêm
Hai giờ
sáng, làng đã lên đèn, tiếng ý ới gọi nhau chuyện to, chuyện nhỏ, rủ nhau đi gặt
ở Hòn Mô, Nhà Giáo… vang cả khung trời. Nhà này kéo rơm, nhà kia giê lúa... Tiếng
trò chuyện rôm rả kéo nhau ra đồng. Từ nhà ra ngõ, từ làng ra đồng đâu đâu cũng
thấy người làm việc – một không khí nhộn nhịp, khẩn trương, chạy đua với thời
gian trước khi mặt trời thức giấc.
Ngồi một
mình trên mũi tàu (tàu chiến Hải quân) nhìn xa xăm về phía chân trời, lắng nghe
sóng vỗ vào mạn tàu bì bõm, cảm nhận sự trong lành, mát mẻ của gió biển lẫn
chút mặn mòi của biển cả, tôi chợt nghĩ về câu nói trong cuộc điện thoại với
cha chiều nay: “Đợt ni nắng lắm, chắc là phải đi gặt đêm con nà”. Bỗng trong
tôi ùa về những ký ức ngày xưa, nơi làng quê nhỏ bé thân thương ở xã Ích Hậu,
huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh (Nay là xã Đông Kinh, tỉnh Hà Tĩnh). Nơi mà tôi có một
tuổi thơ vô cùng đẹp và thơ mộng. Tôi còn nhớ như in những ngày đó:
Hôm đó,
đang miên man trong giấc ngủ, tôi bỗng giật mình bởi cái lay và tiếng gọi to: “Đồng
ơi, dậy đi con”.
“Cho con
ngủ thêm mảy nữa…” – tôi làu bàu.
Nói thì
nói vậy, chứ tôi lồm cồm bò dậy, vơ vội chiếc áo mặc vào, chạy ra sân kéo xe bò
ra cổng, lấy liềm, dây buộc, đòn gánh để lên xe... Mẹ nói vọng ra:
“Con vào
đánh răng ăn cơm đi, để đó mẹ làm cho”.
“Vâng ạ,
cha đi rồi hả mẹ?” – tôi hỏi.
Cha mẹ tôi
là vậy, lúc nào cũng thế, tính hay lo lắng, làm cái gì cũng phải sớm, phải trước
người khác mới chịu. Cứ cặm cụi làm cả đêm, mỗi khi đến mùa gặt cha mẹ lại gầy
đi ít nhiều. Cơm nước xong xuôi, mẹ con tôi ngồi lên xe bò đi ra đến ngõ thì gặp
vợ chồng chú Dương, gia đình bác Lợi…
“Chị với
cháu đi gặt mô đó?” – chú hỏi.
“Nhà Giáo
chú nà, bữa ni ló chín cho rụ rồi”.
Quê tôi là
thế, không biết từ bao giờ đã sinh ra cái “mùa đi đêm” này. Có lẽ là vì cái nắng
như đổ lửa, hoặc những cơn gió Lào khô hanh bỏng rát, hoặc cũng có lẽ là do cả
hai. Nhưng tôi chỉ biết rằng từ khi tôi hiểu chuyện, đã theo cha mẹ ra đồng đi
gặt đêm thế này.
Trên đường
đi, từng dòng xe bò, xe thồ nối đuôi nhau, không khí rôm rả xé tan màn đêm tĩnh
mịch. Mấy đứa nhỏ tuổi hơn tôi thì vui đùa chạy nhảy theo cha mẹ, chạy được một
lúc rồi lăn ra kệ (bờ ruộng) ngủ ngon lành. Ngược đường với chúng tôi đã có những
chuyến xe thồ, xe bò cõng trên mình những bó lúa trĩu nặng ì ạch. Tôi thầm
nghĩ: mình đã sớm rồi, họ còn sớm hơn. Màn đêm là vậy, chứ dưới ánh trăng ai
cũng nhận ra nhau bởi giọng nói, bởi tiếng cười của vụ mùa bội thu.
Gặt đêm
trốn nắng
Lúc xe mẹ
con tôi ra đến chỗ ruộng lúa nhà thì cánh đồng cũng đầy người rồi. Có nhà còn gặt
hơn cả ruộng lúa. Ai cũng tranh thủ lúc mát trời, gặt sớm, gặt nhanh để tránh đối
mặt với mặt trời. Người gặt, người cột, người gồng gánh – không khí tất bật, tất
cả đều chạy đua với thời gian.
Tôi và mẹ
xuống đến ruộng thì cha tôi đã tranh thủ dọn được bờ ruộng để gánh lúa lên đường
cho dễ. Bên cạnh, gia đình ông Hợi cũng đang gặt, hai gia đình vừa gặt vừa trò
chuyện nên vui, thấy hứng khởi hơn. Những cơn gió mát lành từ dòng sông Én thổi
lên, xuyên qua ánh trăng rằm, lùa thẳng vào cánh đồng – mát rượi, dễ chịu vô
cùng, làm tiêu tan bao mệt nhọc. Đang gặt thì thấy con chim bay lên, tôi và cha
chồm tới chụp được mấy con còn lại cùng mấy quả trứng – thế là tối đó có món
chim quay. Cái giống chim đồng mùa này thịt thơm mùi lúa, béo ngậy. Gặt lúa mùa
này hay lắm, nhiều lúc còn bắt được cả ếch, lươn nữa. Hôm đó, ở khu đê có vũng
nước, bao nhiêu cá tập trung lại đó, cả anh em chúng tôi gặt xong xúm nhau lại
bắt được cả chậu to, đem về chia cho các bác, các chú ăn chung.
Gặt được một
lúc, tôi cũng thấy thấm mệt, đau lưng. Tôi mang theo chiếc liềm đến chỗ hòn mồ
(ngôi mộ hoang), cầm chai nước uống một lúc hết nửa chai. Tôi tựa lưng vào đó,
nhìn lên bầu trời đêm đầy sao, suy nghĩ đến chuyện trường lớp, trong làn gió đồng
mát lành rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Một lúc
sau, tôi bị đánh thức bởi tiếng gọi của cha:
“Đồng, dậy
đi gặt nhanh còn về”
“Dạ, dạ,
con làm đây” – Tôi vội vàng cầm liềm nhảy xuống ruộng làm nhanh cho kịp giờ.
Mặt trời vừa
hé những ánh nắng đầu tiên, nhà chúng tôi vẫn còn một ít nữa. Xung quanh, mọi
người hò hét nhau làm nhanh lên, nắng sắp đuổi đến nơi rồi. Trên đường lớn, từng
dòng xe nối tiếp nhau mang theo những bó lúa trĩu bông, những giọt sương sớm
còn chưa kịp tan và những nụ cười còn chưa kịp tắt vì vụ mùa bội thu.
Một lúc
sau, gia đình tôi cũng gặt xong, mấy anh em vội vàng chuyển lúa lên xe để cha sắp
xếp. Mẹ dọn dẹp dưới ruộng, gom hết các thứ bỏ lại vào gánh để đưa về. Đống ếch
cá lúc nãy, mẹ tôi để lại ít để nấu, cho nhà ông Hợi một ít, còn lại bao nhiêu
thì để chúng tôi làm món “ếch quay lửa” – món mà nãy giờ vừa gặt vừa bàn nhau với
mấy đứa con ông Hợi.
Cả một đêm
bận rộn là thế, nhưng không ai thấy mệt. Trên đường lớn, từng dòng xe nối tiếp
nhau mang theo những bông lúa trĩu bông, những giọt sương sớm còn chưa kịp tan
và cả những nụ cười còn chưa kịp tắt vì vụ mùa bội thu. Ánh nắng buổi sớm dịu dịu
xen qua những cành cây kẽ lá, cùng tiếng rầm rì của những chú dế, chị cào cào –
như bản hòa ca chung vui cùng người nông dân, mong cho nụ cười sẽ không bao giờ
tắt trên đôi môi họ.
Gặt lúa
thời nay
Những năm
gần đây, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người làng quê tôi ít phải
tay liềm, tay bó, trần mình giữa cánh đồng dưới ánh nắng chói chang vào ban
ngày để gặt lúa theo cách truyền thống. Thay vào đó là những chiếc máy gặt đập
liên hoàn, giá cả phải chăng, đỡ đi bao nhiêu công sức. Máy gặt đến tận ruộng,
họ chỉ cần xe bò và bao bì là lúa được đóng sẵn, mang về. Ai muốn bán thì có
thương lái ra tận ruộng mua luôn. Rơm rạ cũng được phơi ngay ngoài đồng, gần
như ít phải động chân tay.
Nhờ vậy mà
nỗi vất vả vào ngày mùa của người dân đã giảm đi đáng kể. Mặc dù có máy móc hỗ
trợ, nhưng để có thời gian làm những công việc khác, đặc biệt là để tránh bỏng
rát do nhiệt độ ban ngày tăng cao – có thể ảnh hưởng đến sức khỏe – người làng
quê tôi vẫn chọn cách ra đồng “gặt lúa” vào ban đêm. “Gặt lúa ban đêm” đã và
đang trở thành nét văn hóa truyền thống quê tôi nói riêng, và miền đất miền
Trung gió Lào, nắng lửa nói chung.
Dẫu biết rằng
thời gian sẽ thay đổi, cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn bởi sự giúp sức từ máy móc.
Nhưng tôi nghĩ những đứa trẻ bây giờ và sau này sẽ không còn nhiều cảm giác như
chúng tôi ngày xưa: mất đi cảm giác cùng cha mẹ làm ruộng, mất đi cảm giác cưỡi
trâu qua sông, be bờ bắt cá, chăn trâu thả diều, quay ống nước khoai...
Nhưng hy vọng lớp trẻ sau này vẫn hiểu được “một hạt thóc vàng, chín giọt mồ hôi” để cố gắng học tập, quay trở về làm giàu mạnh quê hương – nơi chôn rau cắt rốn, nơi bố mẹ chúng đã lam lũ một đời nhưng vẫn lạc quan, vẫn yêu, vẫn gắn bó.