Chị kể, khi nhìn thấy những bông lúa cúi mình trong nắng, nghe tiếng ba gọi vọng ra từ bếp, thấy tôi vẫn bé bỏng nép vào lòng như thuở nào, chị chợt hiểu: hạnh phúc không chỉ gói gọn trong một bóng hình nào đó, mà còn ở chính quê hương, gia đình, những người luôn yêu thương chị vô điều kiện.
NGÀY LÚA ĐƠM BÔNG
Truyện ngắn của LINH CHÂU (Hà Tĩnh)
Tháng Tư về trong vạt nắng mềm như tấm lụa mỏng vắt ngang bầu
trời. Tôi bước ra hiên nhà, hít một hơi thật sâu, chợt nhận ra trong gió có một
mùi hương rất quen khiến tôi ngẩn người, không sao nhớ nổi đó là gì. Tôi hít hà
thêm vài ngụm khí trời, để hương ấy len lỏi vào từng hơi thở, từng sợi tóc, rồi
bất giác giật mình. Hóa ra, tháng Tư đã ướp vào nắng gió hương lúa non ngan
ngát, thanh khiết như một dấu hiệu dịu dàng mà đất trời gửi đến. Lúa đã đơm
bông!
Chị Hai từng hứa, ngày lúa đơm bông đầu tiên của năm nay, chị
sẽ trở về. Lời hứa ấy theo tôi suốt những ngày chờ mong, len lỏi vào từng giấc
ngủ, từng buổi chiều đứng trước hiên nhà nhìn ra cánh đồng xa. Tôi nhớ chị lắm!
Tết này, chị không về. Mâm cơm đêm giao thừa thiếu đi một đôi đũa, chỗ ngồi bên
bếp lửa cũng trống vắng. Ba châm ấm trà, rít nhẹ hơi thuốc rồi lặng lẽ nhìn ra
ngoài sân. Còn tôi chỉ biết ôm nỗi nhớ vào lòng, cố hình dung ra dáng chị giữa
phố xá nơi xứ người. Lúa ngoài đồng đã bén rễ, vươn mình xanh rờn giữa nắng.
Nhưng liệu ngày lúa đơm bông, chị có thật sự trở về? Hay lời hứa ấy cũng như những
mùa lúa trước, chỉ còn lại trong những lá thư xa, trong những cuộc gọi vội vã
giữa hai múi giờ chênh lệch?
Chị Hai tôi đẹp lắm, một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm như bông
lúa cúi đầu khi mùa chín tới. Mỗi lần chị vo gạo bên giếng, những sợi tóc lại
buông theo bờ vai gầy, lấp lánh dưới ánh mặt trời, đẹp đến nao lòng. Mẹ mất sớm,
ba lại gặp tai nạn lao động, từ đó chân ba khập khiễng, bước đi chậm chạp như
mang cả nỗi buồn trên vai.
Nhà tôi nghèo, cái nghèo cứ đeo đẳng mãi, nhưng chị Hai chưa
bao giờ than thở. Chị học hết Tiểu học rồi nghỉ hẳn, nhường cho tôi được tiếp tục
đến trường. "Nhà mình chỉ có thể lo cho một đứa học thôi, em phải học thay
cả phần của chị nữa nghe không?", chị nói vậy rồi khăn gói lên thị trấn
làm thuê, gửi từng đồng bạc lẻ về nhà. Áo chị có thể chắp vá, có thể bạc màu
theo nắng mưa, nhưng áo quần của tôi lúc nào cũng sạch sẽ, tươm tất. Chị có thể
nhịn ăn, làm quần quật cả ngày, nhưng chưa bao giờ để tôi thiếu một quyển sách,
một cây bút. Tôi lớn lên trong bàn tay tảo tần ấy, trong những đêm chị lặng lẽ
khâu từng đường kim mũi chỉ, trong những buổi sáng vội vàng dúi vào tay tôi ổ
bánh mì, giục khẽ: “Ăn đi, trễ học đó Thư!”
Ngày bé, tôi thích nhất là được theo chị Hai đi cất vó đêm. Chiều
hôm trước, hai chị em đã tất bật chuẩn bị. Chị giã thính, tôi quạt bếp, cả gian
nhà ngập trong hương thơm của gạo rang, đậu tương, cám trộn, ngai ngái mà ấm áp
lạ thường. Khi trời sập tối, hai chị em rón rén dắt nhau ra bờ sông. Đường làng
tối mịt, chỉ có ánh trăng lưỡi liềm mỏng tang treo trên ngọn tre già, hắt xuống
mặt đất những vệt sáng lấp loáng. Gió đêm thức dậy, lang thang rong chơi qua những
tán cây, lướt trên cánh đồng lúa đang thì con gái, mang theo hương thơm dịu ngọt
của đất trời. Dưới chân, cỏ mềm mát lạnh, còn xa xa, sông quê chảy lặng lờ, phản
chiếu ánh trăng bàng bạc.
Đêm đồng quê không ngủ. Ếch nhái, dế mèn cùng nhau tấu lên bản
hòa ca của đêm đồng quê. Dế mèn gảy đàn, vuốt râu, cất lên khúc hát "ri
ri...". Thỉnh thoảng, một chú nhái tinh nghịch giật mình nhảy tõm xuống nước,
để lại những vòng sóng loang ra rồi tan biến. Tiếng nước vỗ lách tách vào bờ,
hòa cùng tiếng gió xào xạc qua lùm cây, dệt nên bản nhạc êm đềm của làng quê. Nước
sông mùa này trong vắt, mát lạnh, phản chiếu bóng chị Hai lúi húi vươn vó. Tôi
đứng bên nhìn, thi thoảng lại giật giật tay áo:
– Chị ơi, có cá chưa?
Chị Hai không đáp ngay, lặng lẽ nâng vó lên. Nước trượt qua
những sợi lưới, ánh trăng đọng trên đó, lung linh như những hạt kim sa. Rồi một
tiếng "À!" khe khẽ, chị cười, đưa tay vốc mấy chú cá nhỏ, thân tròn lẳn,
lấp lánh ánh bạc. Tôi reo lên khe khẽ, ngoác miệng cười, trong đầu đã tưởng tượng
ra cảnh nồi cá nghi ngút khói, hương thơm chua dịu của dưa muối quyện với vị ngọt
béo của cá đồng. Chị Hai bảo, cá đồng phải nấu với dưa mới ngon, để vị chua át
đi mùi tanh, để thịt cá mềm mà không bở. Chị còn cẩn thận phi thơm hành mỡ, rắc
thêm vài lát ớt cay, làm nồi cá hấp càng thêm đậm đà. Tôi cứ thế nuốt nước bọt
đánh ực, bụng cồn cào vì đói, chỉ mong ngày mai đến thật nhanh!
Rồi một ngày, chị Hai biết yêu. Mỗi buổi chiều, sau khi xong
việc, chị lại soi gương lâu hơn, thỉnh thoảng còn vén tóc gọn gàng, cài thêm một
chiếc kẹp hoa nhỏ. Anh Bính – người yêu chị, là chàng trai nổi tiếng khắp thị
trấn vì vẻ ngoài điển trai. Cao ráo, rắn rỏi, nụ cười có chiếc răng khểnh duyên
đến lạ. Dạo này, chị vui hơn, hay cười hơn. Những chiều muộn, khi hoàng hôn nhuộm
vàng cánh đồng, chị không còn lẻ loi trên đường về. Đôi lần, tôi trông thấy từ
xa, có bóng dáng một chàng trai lững thững đạp xe bên cạnh, hai người vừa đi vừa
trò chuyện, thỉnh thoảng chị lại che miệng cười, ánh mắt dịu dàng như gió sông
mùa hạ.
Chẳng biết từ bao giờ, tôi đã quen với hình ảnh anh Bính
thoăn thoắt xắn tay áo, để lộ đôi cánh tay rắn chắc, rồi thoải mái vác bao gạo
hay bó củi nặng trĩu vào nhà mà chẳng hề tỏ vẻ nhọc nhằn. Những hôm rảnh rỗi,
anh ngồi xổm dưới hiên, tỉ mỉ xoay xoay từng chiếc đinh, cố định lại chiếc ghế
tre cọt kẹt bấy lâu. Tiếng búa gõ lách cách vang lên đều đặn trong buổi chiều
yên ả, hòa cùng giọng nói trầm ấm của anh khi dặn tôi đưa đúng loại đinh hay giữ
chặt thanh tre. Tôi thích thú ngồi bên, quan sát từng động tác thuần thục, rồi
thầm nghĩ trong lòng: giá mà lúc nào anh cũng có mặt trong nhà như thế này.
Hôm anh Bính đưa chị Hai về ra mắt, tôi vẫn nhớ như in ánh mắt
háo hức của chị khi nâng niu chọn bộ áo bà ba đẹp nhất. Mái tóc được chải mượt
mà, gương mặt thoáng chút hây hây đỏ vì hồi hộp. Tôi cũng vui lây, mong ngày chị
Hai có một bờ vai vững chắc, không còn phải gánh vác mọi thứ một mình. Nhưng đời
nào có đơn giản như những gì tôi tưởng tượng.
Gia đình anh Bính, vốn là nhà buôn có tiếng trên thị trấn,
nhất quyết không chấp nhận một cô gái nghèo, mồ côi mẹ, lại có người cha tật
nguyền làm con dâu. Họ nói xuất thân của chị Hai không 'môn đăng hộ đối', rằng
chị không xứng để bước chân vào nhà họ. Những lời cay nghiệt ấy vang vọng giữa
gian nhà, sắc lạnh như lưỡi dao cứa vào lòng chị Hai. Chị im lặng, tay khẽ siết
lấy vạt áo. Tối hôm ấy, chị về nhà, lặng lẽ như một cái bóng. Không còn nụ cười
rạng rỡ, chẳng còn ánh mắt mong chờ.
Một đêm, chị Hai ôm tôi vào lòng, bàn tay gầy guộc khe khẽ vỗ
về. Gió khuya len lỏi qua kẽ lá ngoài sân, mang theo hơi sương lành lạnh, phả
vào da thịt một cảm giác man mác buốt.
-Chị chia tay anh Bính rồi, Thư ạ…
Tôi giật mình, ngước lên. Nhưng bóng tối đặc quánh, che phủ
gương mặt chị. Chỉ có giọng nói thoảng qua, mỏng manh như tiếng gió đồng hiu hắt.
- Hôm nay, chị tặng anh chiếc khăn tay chị đã thêu xong…
Suốt bao đêm, dưới ánh đèn dầu leo lét, chị Hai kiên nhẫn
đưa từng mũi kim, dệt vào đó cả nỗi nhớ thương và những hy vọng thầm lặng. Vậy
mà giờ đây, chiếc khăn lại trở thành món quà của một cuộc chia ly.
-Chị không muốn vì mình mà anh phải cãi lại mẹ cha…
Lời nhẹ như gió thoảng, nhưng tôi biết chị còn nặng lòng lắm.
Ngoài kia, ánh đom đóm lập lòe trong màn đêm, như những giấc mơ nhỏ nhoi đang vỡ
vụn giữa khoảng tối mênh mông. Tôi rúc vào lòng chị, cố giấu đi giọt nước mắt lặng
lẽ thấm vào gối.
Ngày chị Hai đi nước ngoài làm việc cũng là ngày anh Bính rước
dâu. Sáng sớm, chị lúi húi xếp lại quần áo, cẩn thận nhét vào túi một ít thuốc,
mấy gói ruốc tôi làm để chị mang theo ăn dần. Chị bảo, giờ ở thị trấn ít việc
quá, chị phải chịu khó đi xa vài năm. Chiếc xe khách lăn bánh rời bến, bỏ lại
sau lưng cánh đồng tháng Tư đang thơm nức mùi lúa trổ đòng. Chị ngồi gần cửa sổ,
lặng lẽ nhìn quê hương lùi dần sau ô kính. Khi xe đi ngang qua con đường làng dẫn
ra thị trấn, bất chợt dừng lại.
Chiếc xe rước dâu.
Từ xa, đoàn xe hoa chậm rãi tiến về nhà gái. Những dải ruy
băng đỏ rực rỡ phấp phới bay trong gió, rộn ràng như những cánh bướm mùa xuân. Anh
Bính trong bộ vest chỉn chu, vẫn nở nụ cười hiền lành năm nào, chỉ có điều, cô
dâu hôm nay không phải là chị Hai. Chiếc xe khách tiếp tục lăn bánh. Phía sau,
tiếng kèn cưới vẫn tưng bừng, còn trong mắt chị chỉ còn lại một khoảng lặng
mênh mông.
Tôi thay chị Hai quán xuyến gia đình. Ba nhận thêm việc về
làm tại nhà. Sân trước lúc nào cũng đầy những bó tre, nứa, phơi vàng dưới nắng,
chờ đôi tay ba khéo léo chuốt tỉa thành từng nan nhỏ để đan rổ, đan nia. Tiếng
dao lách cách gọt tre, tiếng nan tre cọ vào nhau kêu sột soạt dần trở nên quen
thuộc. Những chiếc rổ, chiếc nia từ đôi tay ba đều chắc chắn, bền đẹp, được người
trong xóm tin dùng.
Từ ngày chị Hai đi, ba trầm lặng hơn. Những bữa cơm chẳng
còn tiếng cười, chỉ có âm thanh khô khốc của chén đũa chạm vào nhau. Tôi lén
nhìn ba, thấy đôi vai ông hơi khòm xuống, ánh mắt đôi khi xa xăm như dõi theo một
dáng hình quen thuộc đã rời xa. Thỉnh thoảng, chị Hai gọi về. Giọng chị vẫn nhẹ
nhàng, luôn hỏi tôi có ăn đủ bữa không, có giữ ấm những ngày trở gió? Nhưng tôi
biết, ở đầu dây bên kia, chị cũng đang giấu đi nỗi nhớ, giấu cả những lần tủi
thân trong căn phòng trọ chật chội nơi xứ người.
Tôi gắng gượng mạnh mẽ, vì biết, dù có thế nào cũng không thể
để ba lo lắng thêm, cũng không thể để chị Hai phải bận lòng. Nhưng đôi khi, giữa
những đêm khuya tĩnh lặng, tôi giật mình tỉnh giấc, cảm giác lành lạnh nơi gối
vì nước mắt đã thấm tự bao giờ.
Sáng nay, tôi thả bước trên con đường quê, giữa những tia nắng
đầu ngày đang rải vàng trên cánh đồng lúa xanh mướt. Bất chợt, tiếng còi xe
vang lên từ đầu ngõ. Chị Hai đã về! Tôi lao đến, ôm chầm lấy chị. Dường như mọi
xa cách suốt bao năm qua đã tan biến trong khoảnh khắc này. Ba bước ra từ trong
nhà, đôi mắt hoe đỏ, giọng nghẹn lại:
-Con về là tốt rồi!
Bữa cơm đoàn viên trôi qua trong niềm vui sum họp. Tối đến,
tôi cùng chị Hai ngồi trên chõng tre ngoài sân, lặng ngắm vầng trăng sáng vằng
vặc. Như thuở ấu thơ, tôi lại cuộn tròn bên chị, gối đầu lên chân, thủ thỉ những
câu chuyện không đầu không cuối. Chị khẽ xoa đầu tôi, giọng dịu dàng:
- Chị về hẳn rồi, không đi đâu nữa! Năm nay Thư thi đại học
rồi, cố lên nha em!
Rồi tiếng hát của chị chợt ngân vang: "Quê hương ơi, có
gì đẹp hơn thế/ Đồng lúa hẹn hò những mùa gặt/ Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt/ Ngày
mai bắt đầu từ hôm nay..."
Ngoài kia, lúa trổ bông, nghiêng mình theo gió, tỏa hương
thơm ngọt lành của mùa vàng trĩu hạt. Chị Hai lặng lẽ nhìn cánh đồng rộng bát
ngát, ánh mắt xa xăm nhưng không còn vương vấn những nỗi buồn cũ. Tôi biết, chị
đã từng tổn thương rất nhiều khi mối tình đầu dang dở. Những năm tháng xa quê,
chị vừa đi tìm chính mình, vừa học cách buông bỏ quá khứ. Nhưng giờ đây, giữa
quê nhà thân thuộc, chị đã tìm lại được sự bình yên.
Chị kể, khi nhìn thấy những bông lúa cúi mình trong nắng,
nghe tiếng ba gọi vọng ra từ bếp, thấy tôi vẫn bé bỏng nép vào lòng như thuở
nào, chị chợt hiểu: hạnh phúc không chỉ gói gọn trong một bóng hình nào đó, mà
còn ở chính quê hương, gia đình, những người luôn yêu thương chị vô điều kiện.
Tôi ngước lên, thấy chị Hai đang mỉm cười, một nụ cười thanh
thản, rạng rỡ như vầng trăng trên cao. Khi ở nước ngoài, chị từng nhận ra rằng
không đâu có hạt gạo ngon như đất nước mình, nên đã tranh thủ học hỏi các khoa
học kỹ thuật liên quan đến nông nghiệp để mang về với ruộng đồng quê hương. Mang
theo những ước mơ dang dở và ngọn lửa nhiệt huyết của tuổi trẻ, nhờ sự giới thiệu
của bác Năm – người bạn thân của ba, ngày mai, chị Hai sẽ bắt đầu công việc mới
tại hợp tác xã, chung tay cùng bà con cải tiến canh tác, đưa khoa học kỹ thuật
về với ruộng đồng. Chị bảo, dù có đi đâu hay làm gì, quê hương vẫn là nơi chị
muốn gắn bó và cống hiến trọn đời.
Tôi siết nhẹ bàn tay chị, cảm nhận hơi ấm thân thuộc như ngày bé. Lòng bỗng nhẹ tênh…