Mặc dù diện tích sản xuất lúa cả nước có xu hướng giảm hàng năm nhưng sản lượng lúa gạo vẫn duy trì ổn định khoảng 43 triệu tấn/năm, trong đó sản lượng lúa của Đồng bằng sông Cửu Long vẫn khoảng 24-25 triệu tấn hàng năm, góp phần đảm bảo vững chắc an ninh lương thực
ĐƯỜNG ĐI ĐẾN
1 TRIỆU HA LÚA CHẤT LƯỢNG CAO VÀ PHÁT THẢI THẤP Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LÊ
THANH TÙNG
(Phó Chủ tịch
thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam)
Nhìn lại chặng
đường sản xuất lúa gạo của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong nhiều thập
niên đã qua cho thấy rằng bước tiến triển theo các định hướng về tính thích
nghi với điều kiện tự nhiên, tính chống chịu với các loại dịch hại nguy hiểm
cho đến năng suất lúa cao phù hợp với thâm canh, tăng vụ, tiến tới chất lượng
cao, đặc sản, đạt các tiêu chuẩn và từng bước xây dựng thương hiệu lúa gạo.
Một chặng đường
hay thật ra đó là một chiến lược lâu dài bền bĩ có đầu tư từng bước và dài hạn
từ công tác nghiên cứu, tạo chọn giống mới đên những chương trình, đề tài, dự
án tổng hợp, kỹ thuật, kinh tế, xã hội của từng khu vực và cả nước với sự tham
gia của rất nhiều thế hệ nhà khoa học, quản lý, doanh nghiệp, nông dân và các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Bài học của Việt Nam và bài học của các nước
trong phát triển ngành hàng lúa gạo đã được ghi vào niên biểu lúa gạo trong khu
vực và thế giới.
Để có được
bước phát triển mạnh mẽ nêu trên phải thấy rõ do sự cần cù, sáng tạo của người
nông dân, sự năng động của doanh nghiệp Việt Nam cùng với chính sách đúng đắn,
hiệu quả của nhà nước như chính sách phát triển kinh tế hộ, hợp tác xã, liên kết
sản xuất, tiêu thụ nông sản, tự do hóa thương mại, mở cửa hội nhập, phát triển
doanh nghiệp, thu hút đầu tư tư nhân, ... Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư công cho
phát triển thủy lợi, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHKT, công
nghệ tiên tiến, hiện đại, khuyến nông, hỗ trợ tín dụng và các chính sách hỗ trợ
nông dân góp phần to lớn đạt được những thành công của ngành lúa gạo Việt Nam.
Mặc dù diện
tích sản xuất lúa cả nước có xu hướng giảm hàng năm nhưng sản lượng lúa gạo vẫn
duy trì ổn định khoảng 43 triệu tấn/năm, trong đó sản lượng lúa của ĐBSCL vẫn khoảng
24-25 triệu tấn hàng năm, góp phần đảm bảo vững chắc an ninh lương thực; đáp ứng
nguồn cung trong nước và xuất khẩu hàng năm trên 6 - 7 triệu tấn gạo, giá trị
trên dưới 3 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu lúa gạo tăng trưởng rõ sau thực hiện tái
cấu trúc, giá gạo bình quân của Việt Nam đã bắt kịp giá gạo của các nước xuất
khẩu top đầu (Thái Lan, Ấn Độ), có thời điểm vượt trên cả giá gạo Thái lan. Đã
hoàn thành các quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch sản xuất lúa toàn quốc, quy hoạch
sản xuất lúa vùng trọng điểm ĐBSCL. Chuyển dịch tích cực trong cơ cấu giống
lúa, tỷ lệ giống lúa chất lượng cao, lúa thơm tăng nhanh.
Đặc biệt sự
chuyển đổi nhanh từ giống có phẩm chất gạo dành cho chế biến sang giống có chất
lượng cao, giống lúa thơm, lúa đặc sản,..; góp phần đáp ứng nhu cầu thị trường
và nâng cao giá trị cho hạt gạo Việt Nam. Gói kỹ thuật cho canh tác lúa tiên tiến
đã được nghiên cứu ở 3 tiểu vùng sinh thái ở trồng lúa trọng điểm ĐBSCL đã được
công nhận tiến bộ kỹ thuật để áp dụng cho sản xuất đại trà.
Như vậy, hầu
như các giải pháp kỹ thuật, môi thường, thương mại lúa gạo đã được chú trọng và
tập trung nhiều. Thế nhưng ngành hàng lúa gạo vẫn đòi hỏi một bước tiến xa hơn
với một sự chuẩn bị kỹ hơn nữa cho chuỗi sản xuất và tiêu thụ hoàn thiện một
cách hợp lý lâu bền và hiệu quả trong tương lai, khi chuyển đổi từ tư duy sản
xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp hàng loạt các yêu cầu về nông nghiệp
tuần hoàn, nông nghiệp xanh, tích hợp đa giá trị, đa mục tiêu đang là những
thách thức và cũng là những định hướng quan trọng cho ngành hàng lúa gạo Việt
Nam và ĐBSCL.
Hiện nay và
thách thức trong tương lai cho vùng ĐBSCL đối với sản xuất lúa là phải thích ứng
với biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt và cường độ gia tăng, đồng thời sản xuất
lúa lại là hoạt động gây phát thải khi nhà kính nhiều nhất trong nông nghiệp và
thâm canh nhưng phải giảm chi phí sản xuất, đáp ứng an toàn thực phẩm, dinh dưỡng
cho lúa gạo hàng hóa và tăng thu nhập, lợi nhuận cho người trồng lúa. Sản xuất
lúa gạo phải thay đổi để phù hợp với thách thức mới này và duy trì hoạt động sản
xuất hiệu quả hơn.
Sản xuất lúa
định hướng theo sự phát triển bền vững cần phải ổn định năng suất, sản lượng
lúa trong từng vụ, từng năm và trong nhiều năm tới; thu nhập, lợi nhuận và đời
sống nông dân được nâng cao; giảm thiểu sự suy thoái về đất đai canh tác lúa; nguồn
nước phục vụ sản xuất và tiêu dùng, sức khỏe người trồng lúa được bảo vệ; đời sống
văn hóa – xã hội nông thôn được cải thiện.
Muốn vậy, ngành
hàng lúa gạo phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, làm nòng cốt cho
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; nâng cao chất lượng, giá trị dinh dưỡng, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; hình thành và nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị
lúa gạo; thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu; sử dụng hiệu quả tài nguyên và
bảo vệ môi trường sinh thái; nâng cao thu nhập của nông
dân và lợi ích cho người tiêu dùng; xuất khẩu gạo chất lượng cao và giá trị
cao.
Chất lượng
giống lúa đã được cải thiện nhờ định hướng nghiên cứu và chọn tạo các giống lúa
hạt dài, trắng trong, không bạc bụng, có độ mềm dẽo và thơm nhẹ, bộ giống lúa
ngắn ngày, có năng suất và chất lượng phù hợp tiêu dùng, chống chịu sâu bệnh
khá, thích ứng rộng với các vùng sinh thái khác nhau, tạo điều kiện đẩy mạnh
thâm canh và chuyển dịch cơ cấu mùa vụ sản xuất có hiệu quả. Bộ giống lúa ngắn
ngày đã tạo thuận lợi cho việc thay đổi mùa vụ, mở rộng diện tích liên kết tiêu
thụ tại nhiều tỉnh ĐBSCL góp phần lớn vào việc gia tăng sản lượng lúa hàng hóa
chất lượng trong toàn vùng.
Tuy nhiên,
hiện nay đã có sự thay đổi về chính sách đẩy mạnh nguồn cung, giảm nhập khẩu của
một số quốc gia nhập khẩu và chính sách tăng cung ở các nước xuất khẩu lúa gạo.
Những năm gần đây, một số nước nhập khẩu lớn của Việt Nam như Indonesia hay
Philippine đang cố gắng thực hiện một loạt các chính sách nhằm tăng cung trong
nước, giảm nhập khẩu lúa gạo. Ngoài ra, các chính sách trợ cấp, trợ giá tại một
số nước cũng có những ảnh hưởng tới sản xuất, thương mại gạo của Việt Nam.
Trong thời
gian tới, Việt Nam và các nước xuất khẩu cũng có thể sẽ bị cạnh tranh bởi nguồn
cung từ các nước có tiềm năng chưa được khai thác như Myanmar, Campuchia, các
nước Nam Mỹ. Thêm vào đó, những thay đổi bất lợi và đột ngột có thể xảy ra từ
các thị trường nhập khẩu gạo lớn, nhất là thị trường Trung Quốc, gây ảnh hưởng
đến hiệu quả xuất khẩu gạo và tiêu thụ lúa cho nông dân.
Theo số liệu
thống kê USDA, tiêu thụ gạo trên toàn thế giới vẫn tăng trưởng đều trong vòng
10 năm trở lại đây, với tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt mức 1,0%/năm.
Trong năm 2020, sản lượng gạo đạt 497,0 triệu tấn, tăng nhẹ 0,7% so với năm
2019 trước đó là 493,5 triệu tấn.
Trong đó, 10
quốc gia tiêu thụ gạo lớn nhất bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh,
Indonesia, Việt Nam, Phillipines Thái Lan, Myanamar, Nhật Bản và Brazil. Trong
các quốc gia này, Thái Lan có tốc độ tăng trưởng tiêu thụ gạo cao nhất trong kỳ
2011 – 2020 với tốc độ 1,6%/năm, tiếp đến là Ấn Độ và Philippines với mức tăng
trưởng lần lượt là 1,4%/năm và 1,3%/năm. Trong khi đó, Brazil, Indonesia, và Nhật
Bản đều giảm tăng trưởng tiêu thụ gạo, lần lượt là 1,1%/năm, 0,8%/năm và
0,4%/năm.
Tổng tiêu thụ
gạo của 10 quốc gia này chiếm đến 80,0% tổng tiêu thụ gạo của toàn thế giới, đứng
đầu là Trung Quốc với 146,3 triệu tấn (chiếm 29,4% tổng tiêu thụ gạo của thế giới),
Ấn Độ với 106,0 triệu tấn (21,3%); tiếp đó, Bangladesh, Indonesia và Việt Nam
có lượng tiêu thụ lần lượt là 36,1 triệu tấn (7,3%), 35,4 triệu tấn (7,1%) và
21,2 triệu tấn (4,3%).
Trong bối cảnh
nêu trên sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã đến lúc phải có những thay đổi cho
phù hợp, tiếp tục phát huy những lợi thế sẵn có, duy trì vị thế chiến lược
trong ngành nông nghiệp Việt Nam. Việt Nam sản xuất lúa gạo để đáp ứng đa mục
tiêu: kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa. Bên cạnh việc đáp ứng thị trường
trong nước, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lúa gạo theo hướng tăng giá trị
và phát triển vững bền. Sản xuất lúa gạo không chỉ đảm bảo an ninh lương thực về
mặt lượng mà còn đảm bảo an toàn thực phẩm, an ninh dinh dưỡng, ổn định thu nhập.
ĐBSCL chiếm
trên 50% sản lượng lúa và 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước. Sản xuất lúa gạo đã
tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu hộ sản xuất nông nghiệp trong vùng, ngành
lúa gạo ĐBSCL không ngừng phát triển trong tất cả các khâu từ sản xuất đến
thương mại. Nhiều chương trình, dự án, mô hình sản xuất lúa tiên tiến đã được
các tỉnh đầu tư, hợp tác với các tổ chức, các bộ ban ngành nhằm thúc đẩy hệ thống
sản xuất lúa gạo bền vững qua đó tạo thu nhập cao hơn cho nông dân, cải thiện
hiệu quả sử dụng tài nguyên, góp phần phần giảm phát thải khí nhà kính và tăng
khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam.
Một trong những
dự án nổi bật cần được nhắc đến là dự án Chuyển đổi Nông nghiệp bền vững tại Việt
Nam (VnSAT) thực hiện từ 2015 đến 2022 với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới
(WB). Dự án VnSAT tập trung vào hai ngành hàng chính là lúa gạo ở ĐBSCL và cà
phê tại Tây Nguyên. Riêng với ngành hàng lúa gạo, Dự án VnSAT đã thành lập và
tăng cường năng lực cho 308 tổ chức nông dân, bao gồm 265 HTX và 43 tổ hợp tác
tại 8 tỉnh; đào tạo tập huấn quy trình kỹ thuật 3G3T, 1P5G cho hơn 150.000 hộ
nông dân trồng lúa.
Vào thời điểm
kết thúc Dự án (tháng 6/2022), đã có khoảng 180.000 ha lúa áp dụng kỹ thuật
canh tác lúa bền vững 3G3T trong đó 2 hơn 121.000 ha áp dụng kỹ thuật 1P5G. Nhờ
áp dụng đúng các biện pháp kỹ thuật được đào tạo nên các hộ nông dân tham gia
các HTX thực hiện quy trình canh tác bền vững trong Dự án VnSAT đã đạt được những
kết quả rất tốt, lợi nhuận ròng tăng 30% so với canh tác truyền thống, chi phí
lúa giống giảm 30- 40%, chi phí phân bón giảm bình quân 35%, chi phí cho thuốc
bảo vệ thực vật giảm 48% và giảm lượng nước tưới sử dụng cho sản xuất lúa. Điểm
đặc biệt ưu việt của kỹ thuật canh tác bền vững 1P5G là lợi ích về môi trường
và khả năng giảm lượng khí phát thải nhà kính.
Dựa vào kết
quả đo đạc từ đồng ruộng, ước tính Dự án VnSAT đã giúp giảm khoảng 1,5 triệu tấn
CO2/năm. Nếu kết quả này được nhân rộng trên những diện tích sản xuất lúa gạo
chủ lực ở ĐBSCL thì tiềm năng đóng góp vào mục tiêu giảm khí phát thải của quốc
gia và của ngành là rất lớn. Nếu lượng giảm khí phát thải được kiểm đếm, chứng
nhận, phát hành tín chỉ các-bon và trao đổi trên các thị trường tài chính
cac-bon trên thế giới thì góp phần quan trọng gia tăng giá trị hạt gạo Việt
Nam, nâng cao thêm thu nhập cho người nông dân.
Các thành phần
kinh tế trong ngành sản xuất lúa gạo cũng đã có những bước phát triển. Có nhiều
doanh nghiệp thực hiện chức năng sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo; dịch vụ sản
xuất và cung ứng, logistics cho ngành lúa gạo; có trên 560 cơ sở chế biến lúa gạo
có quy mô công nghiệp và khoảng 840 công ty sản xuất, kinh doanh phân bón cung
cấp khoảng 25-30 triệu tấn/năm. Ngoài ra, còn nhiều doanh nghiệp sản xuất thức
ăn chăn nuôi và dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp khác.
Ngoài ra, việc
xây dựng thương hiệu gạo phát thải thấp, thân thiện và trách nhiệm sẽ nâng cao
giá trị, uy tín, khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam và góp phần
tăng lợi nhuận cho nông dân, cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Đề án “Phát
triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp
gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long” có ý nghĩa quan trọng trong định hướng phát
triển ngành hàng lúa gạo; Chuyển đổi
phương thức canh tác lúa bền vững ở ĐBSCL, hình thành vùng nguyên liệu tập
trung quy mô lớn ổn định lâu dài, đảm bảo chất lượng, quy trình sản xuất hiện đại,
đồng bộ, đáp ứng mục tiêu nâng cao giá trị chuỗi sản xuất lúa gạo, cải thiện
thu nhập cho người nông dân, đảm bảo an ninh lương thực và phục vụ chế biến, xuất
khẩu gạo đạt hiệu quả cao, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi
khí hậu.
Hình thành một
triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tổ chức
lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng là mục tiêu xuyên suốt
trong quá trình triển khai đề án, hàng triệu hộ nông dân, hàng triệu ha canh
tác lúa sẽ được thay đổi từ quy mô, thiết kế đồng ruộng, đầu tư hạ tầng, thay đổi
phương thức sản xuất, áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại, khai thác các nguồn
lực, sản phẩm lúa gạo, sản phẩm chuyên sâu, các giá trị văn hóa tiềm năng, cảnh
quan và môi trường, văn minh sông nước gắn với văn minh lúa nước... cuộc tái cấu
trúc quy mô lớn, đồng bộ và kéo dài lợi ích quốc gia và tưng chủ thể trong chuỗi
ngành hàng lúa gạo.
Chuỗi ngành
hàng lúa gạo cần được nhìn nhận rộng hơn về phạm vi và quy mô, dài hơn về thời
gian và sâu hơn về lĩnh vực với sự đa dạng các hình thức, nguồn lực.
Không ít những
cơ hội khi bước đi những bước dài trên con đường tái cấu trúc ngành hàng lúa gạo
Việt Nam như: Quy mô và kỷ thuật sản xuất còn nhiều tiềm năng giảm phát thải
thông qua các kỹ thuật canh tác bền vững; Xu hướng sản xuất và nhu cầu thị trường
thế giới ngày càng chú trọng đến các yếu tố trách nhiệm với môi trường; Cam kết
và Chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ; Các tổ chức quốc tế cũng có nhiều
chương trình hỗ trợ; Phương hướng cải thiện sinh kế cho nông dân ở nhiều địa
phương có sự đa dạng, phù hợp; Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là
xu hướng được nhiều người quan tâm hơn; Đổi mới sáng tạo và Khoa học công nghệ
được khuyến khích, đầu tư.
Tuy nhiên, vẫn
có không ít những thách thức: Thay đổi nhận thức của Nông dân, chuyên môn, quản
lý là một công việc cần kiên trì, bền bỉ; Thay đổi tập quán canh tác của nông
dân cần được tiến hành đồng bộ, Chi phí đầu tư ban đầu cho những thay đổi đang
còn hạn chế nguồn lực; Thiếu hụt thông tin và kiến thức để hoàn thành chuỗi
ngành hàng hoàn thiện hơn; Hạ tầng kinh tế xã hội cần nhiều sự đầu tư; Liên kết
chuỗi giá trị ngành hàng còn long lẻo, Quản lý nguồn phát thải và khả năng kiểm
tra và chứng nhận chua thống nhất
Con đường sẽ
đi và phải đi, không khởi đầu sẽ không thể tiếp bước và không đi thì sẽ không đến
được những ước vọng cho một nền lúa gạo Việt Nam đã có nhiều kỳ tích./.