Đêm hôm đó, nằm trên chiếc chõng tre ngoài hiên, tôi trăn trở mãi không ngủ được. Gió đêm hiu hiu thổi đưa hương lúa phảng phất đâu đây. Tiếng dế, tiếng ếch như bản nhạc đồng quê ru tôi vào miền suy tưởng. Tôi nghĩ về những gì nội kể, về hình ảnh ông cha trên đồng lúa khi xưa...
Bài dự thi “Lúa gạo Việt – Nguồn cội và tương lai”
NGỌC TRỜI QUÊ NỘI
ĐẶNG THIÊN PHONG
Một buổi chiều khi ánh nắng hoàng hôn đang rải vàng trên những cánh đồng bát ngát, tôi trở về quê nội ở Đồng Tháp sau bao năm xa cách. Chiếc xe khách lăn bánh chậm rãi trên con đường làng quanh co, hai bên là những cánh đồng lúa xanh mướt trải dài tít tắp đến tận chân trời. Gió từ cánh đồng thổi vào mát rượi, mang theo hương thơm ngai ngái của lúa non và mùi phù sa quen thuộc. Trước mắt tôi, quê hương hiện ra vừa quen thuộc vừa mới lạ, khiến lòng tôi dâng trào một niềm xúc động khó tả.
Quang cảnh ấy khiến tôi nhớ lần được ba chở về quê thuở nhỏ. Khi đó, cánh đồng lúa trong mắt tôi rộng lớn như biển xanh với những cánh cò trắng thấp thoáng trên nền trời. Giờ đây, vẫn là cánh đồng ấy nhưng tôi đã trưởng thành. Cảnh vật quê nội dường như vẫn vẹn nguyên, chỉ có lòng người thêm phần bồi hồi. Từng kỷ niệm tuổi thơ theo gió đồng thoảng qua, làm sống dậy trong tôi bao hình ảnh thân thương: tiếng cười giòn tan của lũ trẻ chạy nhảy trên bờ ruộng, tiếng gọi trâu về chuồng lúc chập choạng tối và cả tiếng máy xay lúa rì rầm đâu đó trong xóm nhỏ.
Xe dừng lại ở đầu làng, tôi xách hành lý bước xuống. Con đường đất dẫn vào nhà nội uốn lượn dưới những rặng tre xanh rì rào. Đất quê mềm xốp như muốn ôm lấy bước chân của người con xa xứ trở về. Ngôi nhà ngói năm gian của ông bà hiện ra sau vườn cây ăn trái sum suê. Vừa thấy tôi, nội đã vội bước ra hiên, đôi mắt mờ đục của bà bỗng ánh lên niềm vui. Bà ôm chầm lấy tôi, giọng run run: “Cháu về rồi đó hả? Lớn quá, khác xưa nhiều quá…”. Tôi siết chặt lấy bà, nghe rõ mùi trầu quen thuộc và cảm nhận bờ vai gầy guộc của bà rung nhẹ. Giây phút ấy, tôi biết mình đã thật sự về đến cội nguồn yêu thương.
Tối hôm đó, dưới mái nhà xưa cũ, tôi quây quần bên mâm cơm cùng nội và mấy người họ hàng. Mâm cơm quê giản dị mà ấm áp lạ thường. Giữa mâm là nồi cơm gạo mới trắng ngần, thơm ngát – thứ gạo nàng thơm nội vừa lấy từ vụ mùa mới gặt. Nội xới cho tôi bát cơm đầy, bảo: “Ăn đi con, cơm gạo mới quê mình đó, lâu rồi cháu mới được ăn ha.” Tôi nhìn bát cơm trắng tinh, từng hạt cơm lấp lánh dưới ánh đèn dầu như những hạt ngọc của đất trời. Khói cơm thơm tỏa lên quyện trong không khí mát mẻ của đêm quê, làm lòng tôi chùng lại. Đã bao lâu rồi tôi mới được ăn bát cơm quê nội nấu? Cơm thành phố dù ngon đến đâu cũng không thể có được hương vị đặc biệt này – hương vị của quê hương, của mồ hôi người nông dân trộn lẫn phù sa đồng ruộng.
Món ăn kèm theo cũng đượm vị đồng quê như cá linh kho tộ, canh chua bông điên điển hay rau muống xào tỏi – món nào cũng ngon lạ lùng. Nhưng có lẽ ngon nhất vẫn là bát cơm dẻo thơm thấm đượm tình quê. Nội vừa ăn vừa gắp thức ăn cho tôi, sợ cháu đói. Tôi vừa ăn vừa nghe nội kể chuyện làng quê: nào là năm nay lúa được mùa, hạt gạo bán được giá; nào là con kênh trước nhà mới được nạo vét nên nước về đầy ruộng; rồi thì vụ rồi, cái Tư hàng xóm nhờ trồng lúa sạch không phun thuốc nên được công ty bao tiêu, còn được đi tập huấn tận nước ngoài. Tôi lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu mỉm cười, lòng thầm vui vì quê mình ngày càng đổi mới.
Đêm dần xuống. Sau bữa cơm, tôi giúp nội dọn dẹp rồi hai bà cháu pha một ấm trà ngồi ngoài hiên uống. Trời tối đen như mực nhưng trên cao muôn vàn vì sao lấp lánh. Tiếng côn trùng rỉ rả hòa với tiếng ếch nhái vang vọng từ cánh đồng xa tạo thành bản đồng ca quen thuộc của đêm quê. Hớp ngụm trà nóng, tôi quay sang nội, khẽ hỏi: “Nội ơi, ngày xưa quê mình trồng lúa có được tốt như bây giờ không? Hồi nội còn nhỏ, chắc là vất vả lắm hả nội?” Nội chậm rãi gật đầu, mắt hướng về khoảng không xa xăm của miền ký ức. Giọng bà trầm xuống: “Ừ, ngày xưa khổ lắm con à. Hồi đó ông cố mày với bà con làm ruộng cực nhọc hơn bây giờ nhiều. Không có máy móc chi đâu, mọi thứ đều làm bằng tay chân với con trâu cái cày. Mùa mưa tới, nước ngập trắng đồng, người ta phải lội bì bõm cấy lúa. Rồi đến mùa gặt thì dầm mưa dãi nắng cắt lúa bằng liềm, tối về lại quây quần giã lúa suốt cả đêm. Cơm gạo làm ra chẳng đủ ăn, có năm mất mùa đói kém, người dân trong làng còn phải ăn độn rau, củ sen, củ súng…”
Tôi lặng người hình dung khung cảnh những ngày xưa cũ ấy. Trong ánh đèn dầu leo lét, bóng nội in trên vách trông nhỏ bé lọt thỏm giữa không gian tĩnh mịch. Lời kể chậm rãi của nội đưa tôi ngược dòng thời gian về quá khứ xa xăm. Nội kể tiếp, giọng chùng hẳn xuống khi nhớ về những năm tháng gian khó hơn: “Rồi tới thời chiến tranh, bom đạn rơi xuống cả đồng lúa. Có năm giặc càn đốt sạch lúa ngoài đồng, bà con mất trắng, đói khổ lắm. Vậy mà ông nội con với bao thanh niên trong làng vẫn quyết tâm bám ruộng, giấu lúa trong hầm để nuôi quân giải phóng. Nhờ trời thương, cuối cùng mình cũng vượt qua. Hòa bình lập lại, ruộng đồng lại hồi sinh, người người lại bắt tay vào cày cấy.”
Lời nội kể làm lòng tôi thắt lại. Tôi cúi nhìn chén trà, nước trà sóng sánh ánh vàng như màu lúa chín. Tôi tưởng như trong vị chát đắng của trà có vị mặn của mồ hôi và nước mắt người nông dân qua bao thế hệ. Hạt gạo quê hương đã thấm biết bao mồ hôi, công sức và cả máu xương của cha ông. Nhờ có cây lúa nuôi dưỡng mà dân tộc ta mới vượt qua được những năm tháng đói kém, giữ vững được quê hương.
Đêm hôm đó, nằm trên chiếc chõng tre ngoài hiên, tôi trăn trở mãi không ngủ được. Gió đêm hiu hiu thổi đưa hương lúa phảng phất đâu đây. Tiếng dế, tiếng ếch như bản nhạc đồng quê ru tôi vào miền suy tưởng. Tôi nghĩ về những gì nội kể, về hình ảnh ông cha trên đồng lúa khi xưa, về những hy sinh thầm lặng của bao thế hệ nông dân để làm nên hạt gạo nuôi sống dân tộc. Càng nghĩ, tôi càng thấy tự hào và biết ơn. Tự hào vì mình sinh ra từ mảnh đất của nền văn minh lúa nước lâu đời – nơi cây lúa không chỉ là cây lương thực mà còn là chứng nhân lịch sử, là sợi dây nối kết con người với quê hương qua bao thăng trầm. Và biết ơn những người nông dân “một nắng hai sương” đã đổ mồ hôi trên thửa ruộng để mang lại bữa cơm no cho mọi nhà.
Ánh trăng thượng tuần vằng vặc treo trên nền trời, tôi trở mình rồi thiếp vào giấc ngủ tự lúc nào…
Đặng Thiên Phong.
Sáng sớm hôm sau, tôi bị đánh thức bởi tiếng gà gáy vang từ sân sau. Trời mới tảng sáng. Nội đã dậy từ bao giờ, đang lui cui quét sân và chuẩn bị ra thăm ruộng lúa. Tôi vội rửa mặt rồi xin đi theo nội. Hai bà cháu men theo con đường nhỏ dẫn ra cánh đồng phía sau làng. Buổi sớm, không khí trong lành mát mẻ. Mặt trời còn núp sau màn sương mỏng, những giọt sương đêm đọng trên lá lúa long lanh như hạt ngọc. Xa xa vài bác nông dân cũng quảy cuốc ra đồng, người dắt trâu, người lái máy cày; tiếng nói cười và cả tiếng chim líu lo hoà vào nhau chào ngày mới. Quang cảnh bình minh trên đồng quê thật yên bình và tươi đẹp biết bao.
Ra tới ruộng, nội chỉ cho tôi thửa ruộng nhà mình. Ruộng không lớn nhưng lúa đang thì con gái, xanh rợn cả một góc đồng. Những cây lúa non mảnh mai vươn lên khỏi làn nước, lá lúa vươn dài mềm mại. Tôi tháo dép, xắn quần lội xuống ruộng cùng nội. Làn nước mát lạnh và bùn mềm ngập đến mắt cá chân gợi cho tôi cảm giác vừa lạ vừa quen. Ngày nhỏ tôi từng nhiều lần lội bùn bắt cua, mò ốc nơi thửa ruộng này, vậy mà đã bao năm nơi phố thị, đôi chân gần như quên mất cảm giác bùn lầy. Giờ được chạm lại bùn đất quê hương, tôi thấy thân thuộc làm sao.
Nội cúi xuống nhấc lên một bụi lúa, xem xét thân lá rồi mỉm cười hài lòng: “Lúa tốt lắm, xanh mướt vầy là được mùa đó con. May nhờ mùa này mưa thuận gió hòa, lại làm đất kỹ, bón phân cân đối nên không bị sâu bệnh chi đáng kể.” Tôi nhìn những giọt nước long lanh trên lá, chợt nhận ra mỗi cây lúa nhỏ bé này chứa đựng bao kỳ vọng của người trồng trọt. Từ lúc gieo mạ đến khi cấy, chăm sóc, rồi đợi ngày trổ bông kết hạt… biết bao công sức và âu lo gửi gắm vào đó. Người nông dân chăm cây lúa chẳng khác nào chăm chút đứa con của mình, ngày ngày ra thăm, bắt sâu, bón phân, dẫn nước… chỉ mong đến mùa thu hoạch sẽ thu về những hạt lúa trĩu vàng.
Đứng giữa thửa ruộng ngập nước, tôi phóng tầm mắt ra bốn phía. Một không gian bao la mở ra trước mắt: những ruộng lúa nối tiếp nhau trải dài đến tận đường chân trời. Lúa đang thời con gái, màu xanh mơn mởn phủ khắp cánh đồng như một tấm thảm nhung khổng lồ. Trên cao, ông mặt trời dần nhô lên, tỏa những tia nắng ấm đầu ngày xuống vạn vật. Gió sớm vi vu lướt qua làm cả cánh đồng lúa dập dờn gợn sóng như mặt biển xanh rì. Khung cảnh đẹp đến nao lòng khiến tôi cứ đứng lặng người ngắm nhìn. Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt thấy lòng mình ngập tràn niềm vui khó tả khi được hòa mình vào thiên nhiên đồng nội.
Đồng Tháp quê tôi đất đai màu mỡ do phù sa sông Cửu Long bồi đắp, khí hậu thuận hòa, con người lại chăm chỉ chịu khó, nên ruộng đồng lúc nào cũng xanh tốt. Từ bao đời nay, nơi đây lúa gạo đã nuôi sống biết bao thế hệ, trở thành niềm tự hào của người dân miền Tây. Quê hương tôi quả thật trù phú: lúa bát ngát cò bay thẳng cánh, nước dạt dào cá tôm. Nghĩ đến điều ấy, lòng tôi dâng lên niềm yêu thương tha thiết dành cho quê hương và cây lúa.
Buổi chiều, theo lời rủ của vài người bạn thuở nhỏ, tôi cùng họ đến thăm cánh đồng mẫu lớn ở xã bên. Đứng giữa cánh đồng rộng bát ngát trổ đòng đòng xanh mướt, tôi ngỡ ngàng chứng kiến những đổi thay của quê hương. Trên cao, một chiếc máy bay điều khiển từ xa đang lướt dọc theo thửa ruộng, phun xuống những màn sương thuốc bảo vệ thực vật mỏng tang. Bạn tôi hào hứng khoe rằng giờ đây bà con nông dân áp dụng nhiều kỹ thuật hiện đại: nào máy móc cơ giới hóa khâu cày gặt, nào dùng drone phun thuốc, rồi hệ thống bơm tưới tự động bằng năng lượng mặt trời. Nhờ đổi mới cách làm, lúa vẫn tốt tươi mà người nông dân đỡ vất vả, lại hạn chế ô nhiễm môi trường. Chứng kiến thành quả ấy, lòng tôi dâng trào niềm tự hào và tin tưởng vào hướng đi nông nghiệp xanh, bền vững của quê hương.
Hoàng hôn dần buông. Trên đường về, tôi ghé qua bờ đê quen thuộc nơi ngày nhỏ từng thả diều. Tôi và cậu bạn lặng ngồi nhìn mặt trời đỏ rực chìm dần sau rặng tre cuối chân trời. Cả cánh đồng mênh mông ngập trong ánh chiều vàng óng. Vài chú trâu thong thả trở về chuồng, lũ trẻ mục đồng vừa cưỡi trâu vừa hát vang. Khung cảnh quá đỗi thanh bình, tôi ước gì thời gian ngừng trôi trong khoảnh khắc này.
Tối đó, trước khi đi ngủ, tôi ra thăm gian thờ của ông bà. Dưới ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy trên bàn thờ có một đĩa nhỏ đựng đầy những hạt gạo trắng tinh đặt trang trọng cạnh bát nhang. Nội bảo đó là gạo mới đầu vụ được chọn những hạt đẹp nhất dâng lên tổ tiên, tạ ơn các bậc tiền nhân đã khai hoang mở cõi, giữ gìn ruộng đồng cho con cháu hôm nay. Tôi nhẹ nhàng cầm vài hạt gạo đặt trong lòng bàn tay. Những hạt gạo nhỏ nhắn mà chứa đựng biết bao ý nghĩa – đó là tấm lòng thành kính của người hiện tại đối với người xưa, là sợi dây nối quá khứ với hiện tại. Tôi chợt hiểu rằng hạt gạo không chỉ nuôi sống thể xác con người mà còn nuôi dưỡng cả văn hóa, truyền thống và tâm hồn dân tộc. Hàng ngàn năm qua, từ thuở các Vua Hùng dựng nước, cây lúa đã là nền tảng của văn minh Việt. Chính những làng quê lúa nước như quê nội tôi đây đã hun đúc nên bản sắc người Việt: cần cù, chịu thương chịu khó, gắn bó với đất đai và làng xóm. Hạt gạo quê hương lắng đọng trong nó hồn quê, tình đất, tình người.
Ngày chia tay quê, tôi dậy thật sớm đi dạo một vòng quanh làng như muốn thu vào tầm mắt những hình ảnh thân thương nhất. Qua những ruộng lúa đang thì con gái, tôi đưa tay vuốt nhẹ những bông lúa còn đọng sương, thì thầm lời chào tạm biệt. Tôi tin những cây lúa ấy cũng hiểu lòng mình, chúng khe khẽ lay động trong gió sớm như vẫy chào. Đường làng buổi sớm vắng vẻ và êm đềm. Hàng dừa, bụi tre ven đường xào xạc như lời thì thầm của quê hương. Ghé chợ sáng, tôi thấy mấy sạp hàng bày đủ sản vật từ lúa gạo: gạo tẻ, nếp thơm, bánh tráng, cốm nổ, rượu nếp… Tôi mua vài ký gạo nàng thơm Đồng Tháp về làm quà. Nội thấy tôi ôm bao gạo to liền bật cười: “Trên đó thiếu gì gạo đâu con?” Tôi cũng cười thưa: “Dạ nhưng gạo quê mình vẫn là nhất.” Nghe tôi nói, ánh mắt nội ánh lên niềm vui tự hào.
Trên đường trở lại thành phố, tôi miên man suy nghĩ về những ngày vừa qua. Chuyến đi này đã đem đến cho tôi biết bao cảm xúc và chiêm nghiệm quý giá. Tôi hiểu sâu sắc rằng hạt gạo quê hương không chỉ là nguồn lương thực để no lòng, mà còn là kết tinh văn hóa, là sợi dây bền chặt nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Cây lúa đã tạo nên làng mạc, hình thành tập quán, lễ hội, ẩm thực của người Việt. Từ lễ hội xuống đồng đầu xuân, lễ cúng cơm mới, đến tục dâng bát cơm trên bàn thờ gia tiên mỗi ngày… tất cả đều bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước. Có thể nói, cây lúa chính là linh hồn của văn hóa Việt. Nhìn những hạt gạo trắng ngần, tôi như thấy thấp thoáng bóng dáng cha ông và thấu hiểu công lao của biết bao thế hệ đi trước.
Bây giờ, nghĩ về tương lai, tôi lại càng vững tin và hy vọng. Hạt gạo Việt đã nuôi dưỡng dân tộc suốt chiều dài lịch sử và sẽ tiếp tục là nền tảng cho một tương lai thịnh vượng. Tôi hình dung những cánh đồng lúa xanh mướt trải dài khắp ba miền đất nước vẫn trĩu bông nặng hạt nhưng được canh tác theo phương thức xanh, bền vững hơn. Người nông dân sẽ không còn phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” như xưa, mà được hỗ trợ bởi khoa học kỹ thuật hiện đại. Những cánh đồng thông minh cùng những giống lúa mới chịu mặn, chịu hạn sẽ giúp bà con ứng phó với biến đổi khí hậu, giữ vững vựa lúa quê hương. Hạt gạo Việt mang thương hiệu quốc gia cũng sẽ vươn xa, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Mai này, khi nhắc đến Việt Nam, bạn bè năm châu sẽ nghĩ ngay đến những cánh đồng lúa bát ngát và hạt gạo trắng dẻo thơm – biểu tượng của một đất nước giàu bản sắc đang vươn mình hội nhập.
Chiếc xe bon bon trên đường cao tốc, bỏ lại sau lưng vùng quê nhỏ với muôn vàn kỷ niệm. Trong túi xách của tôi, những hạt gạo nàng thơm mang theo như chứa đựng một phần linh hồn quê hương. Tôi mỉm cười nhìn ánh nắng ban mai nhảy múa trên những cánh đồng xa xa ngoài ô cửa kính. Một cảm giác bình yên và ấm áp lan tỏa. /.